Linh Vũ
Truyền thống lâu đời trong ngày Tết Việt, thường là các chùa chiền, các nhà thờ hoặc các sinh hoạt cộng đồng đều có treo những câu đối liên với nhiều màu sắc rất đẹp. Các tờ báo xuân thì mất nhiều trang đăng những bài thơ xướng họa Đường luật. Và còn nhiều phong tục tập quán khác nữa của người Việt mình như: Mâm ngũ quả, màu sắc, tục xông nhà, thờ cúng, hái lộc đầu năm.v.v. Mặc dù, có những truyền thống không còn thích hợp nữa, có những phong tục thuộc về mê tín dị đoan, nhưng nhiều người vẫn cố duy trì trong nhiều gia đình. Đặc biệt hôm nay chúng tôi chỉ muốn nói đến hai lĩnh vực, đó là “câu đối Tết” và “thơ đường luật”.
1-Những câu đối Tết. Thông thường những câu đối Tết được viết bằng chữ Nôm, chữ Hán, chữ Việt với cách viết hoa văn hay viết theo lối thư pháp nét chữ đẹp trông giống chữ tàu, chữ Hàn, chữ Nôm, chữ Nhật. Câu hỏi được đặt ra là tai sao câu đối Tết lại dùng những thứ ngôn ngữ xa xưa đó mà ít có dùng ngôn ngữ thuần Việt như hiện nay. Có lẽ ai cũng biết là văn hóa người Việt đã bị ảnh hưởng quá lâu với văn hóa Trung Hoa. Cho nên các nhà nho, các ông Đồ già thường phải sử dụng chữ Hán, chữ Nôm để viết câu đối Tết trước khi có tiếng Quốc ngữ.
Nói đến câu đối Tết có lẽ không ai mà không nhớ đến bài thơ “Ông Đồ” của nhà giáo Vũ Đình Liên… Nhưng mỗi năm mỗi vắng. Người thuê viết nay đâu? Giấy đỏ buồn không thắm. Mực đọng trong nghiên sầu… Đây là bài thơ rất xúc động về việc các ông đồ già ngày xưa thường mài mực, khom lưng viết câu đối trên những tờ giấy, trên vải lụa đỏ để bày bán trên đường phố, trên khắp đường chợ quê. Ngay thời đó, câu đối Tết, chữ Hán, chữ Nôm đã không còn ai đoái hoài nhiều. Hôm nay các ông đồ già đã biến mất, thay vào đó ông đồ bằng “máy vi tính” nhanh chóng với nhiều màu sắc tuyệt đẹp. Những câu đối được viết trên vải hay giấy đỏ thường dùng chữ Hán Nôm, thấy đẹp mắt. Nhưng có một số câu viết khó hiểu, nếu không biết nghĩa chữ Hán Nôm. Tuổi trẻ hôm nay có bao nhiêu người hiểu được ý nghĩa các chữ viết đó trên các câu đối? Ngay cả các học sinh ở VN hiện nay cũng rất rất ít người hiểu được các câu đối đã nói lên điều gì. Còn các em hải ngoại thì khỏi phải nói, các em xem đó như là một tấm biển trang hoàng cho đẹp mà thôi.
Chúng tôi nghĩ rằng, thời gian không còn lâu nữa câu đối Tết sẽ không còn phổ biến hay được sử dụng ở hải ngoại, khi thế hệ cha ông không còn nữa. Ở Việt Nam sau năm 75 Bộ giáo dục có nhiều lần đề nghị đưa chương trình dạy chữ Hán vào bậc Trung học và Đại học, nhưng không thành vì có quá nhiều tranh cãi. Dĩ nhiên, là nó cũng sẽ mất dần theo thời gian vì nhiều lý do.
Những câu đối thật ra không đơn giản để viết, vì nó phải có một số quy tắc về chữ nghĩa vần điệu, niêm luật bằng trắc. Ngay cả các từ “đối” rất khó khăn, nó phải có nghĩa ngang nhau, hợp nhau thành một đôi. Câu đối chuẩn phải đúng về đối ý, đối chữ, về thanh bằng trắc, về loại thực tự, thanh câu bên trái, câu bên phải đối nhau.v.v. Đối thì có nhiều loại khác nhau như: Câu đối mừng, Câu đối phúng, Câu đối Tết, Câu đối thờ, Câu đối tự thuật, Câu đối đề tặng, Câu đối tức cảnh, Câu đối chiết tự, Câu đối trào phúng, Câu đối tôn giáo.v.v. (câu đối Tết còn gọi là Xuân liên. Người Trung Quốc, còn gọi là “Môn đối”, “Xuân thiếp”, “Đối liên”, “Đào phù”, “Đối tử”) Rất tiếc vấn đề này không thể viết hết trong một trang giấy được, chúng tôi chỉ nêu một vài ví dụ ngắn gọn sau đây. Các câu đối hay gọi liên (liễn) đa số đều dùng chữ Hán Nôm rất khó hiểu đối với tuổi trẻ như: Thiên tăng tuế nguyệt, niên tăng thọ. Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường” (Trời thêm tuổi mới, năm thêm thọ. Xuân khắp càn khôn, phúc khắp nhà); Niên hữu tứ thời, xuân vi thủ. Nhân sinh bách hạnh, hiếu vi tiên; Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức. Khải hậu nhân, trường phát kỳ tường; Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện. Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh, hay Niệm tiên tổ, duật tu quyết đức. Khải hậu nhân, trường phát kỳ tường.v.v. Đồng thời cũng có những câu dễ hiểu như: Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi, Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng. (Nguyễn Công Trứ). Nực cười thay! Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết, Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh chưng đều có, thừa Xuân. (Tú Xương). Già trẻ gái trai đều khoái Tết, Cỏ cây hoa lá cũng mừng Xuân. Hay câu dân gian như: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ/Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh” Thật ra còn nhiều nữa nhưng không thể nêu lên hết được.
Thú chơi câu đối Tết là nét văn hóa không thể thiếu ở Việt Nam từ rất lâu. Câu đối không chỉ là lời chúc mừng năm mới của gia chủ mà còn là lời động viên cổ vũ tinh thần cho mọi người khi Tết đến xuân về. Câu đối Tết là thú chơi tao nhã mang tính “Trí”, “Tĩnh” và “Tâm”. Mặc dù thế, nhưng có lẽ vài năm nữa câu đối Tết sẽ không còn tồn tại. Thời gian thay đổi không ngừng, tiếng Việt càng ngày càng trong sáng người Việt không cần thiết phải học Hán văn như các ông đồ nho ngày xưa. Hán văn khó hiểu, thật sự không cần thiết cho VN. Các Quốc gia tiến bộ hiện nay họ khuyến khích dùng tiếng Anh làm tiếng phổ thông, để đất nước có nhiều cơ hội phát triển theo đà văn minh khoa học, kỹ thuật cao hôm nay. Nếu học chữ Hán thật tình không có lợi ích gì, chữ viết rất khó học, nếu biết được cũng chỉ đi làm tôi tớ cho bọn Tàu mà thôi. Một điều khá ngạc nhiên nữa là, có một số hàng quán, hãng xưởng của người Việt trong lẫn ngoài nước lại sử dụng tiếng Hán hay tiếng Nôm làm bảng hiệu. Bên trong lại thờ Trương Phi, Quan Công, Tào Tháo, Thần tài, Thổ Công, Thổ địa… Hay có một số chùa chiền dùng tiếng Nôm hay tiếng Hán để đặt tên các đền chùa.v.v.
Tóm lại, tiếng thuần Việt rất phong phú và mọi người từ trẻ đến già đều có thể đọc và hiểu một cách dễ dàng, nhưng tại sao lại mượn tiếng Hán, tiếng Nôm để sử dụng? Chẳng lẽ ước mơ của Tổ Quốc là con cháu phải làm nô lệ cho Trung Hoa. Nếu muốn viết câu đối Tết nên sử dụng tiếng thuần Việt thì tốt hơn, thậm chí nếu dùng bằng tiếng Anh tuổi trẻ càng dễ hiểu, người ngoại quốc còn biết đến nét văn hóa lâu đời của chúng ta hơn.
2- Thơ đường. Chúng tôi muốn nói là thơ xướng họa Đường luật trên các báo chí Tết hiện nay. Theo chúng tôi được biết, thể loại thơ Đường luật đã chết theo thời gian khá lâu ít ai làm, ít ai đọc. Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì lối thơ đường luật ở VN hiện nay không còn ai muốn làm nữa, tuổi trẻ không hề quan tâm đến. Ngay cả chữ Việt các em hải ngoại cũng không thể đọc, không thể viết thì làm sao hiểu được nghĩa của nó huống hồ là thơ đường. Thơ đường luật có một hệ thống phức tạp được thể hiện qua 5 điểm như: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Sự đòi hỏi khó khăn này đã làm cho tuổi trẻ không còn để ý đến. Cho nên, thể loại thơ đường luật đã dần dà chết theo thời gian. Sự tiến hóa của nền văn học hiện nay, tuổi trẻ VN có mấy ai muốn biết về thơ đường luật. Ngay cả Trung Quốc nơi xuất phát thể thơ này cũng đã mai một trong phong trào thay đổi thơ mới hiện nay. Loại thơ Đường là loại khó làm, gượng ép và bắt buộc một số niêm luật phải tuân theo. Chính vì sự khắt khe này, thơ Đường hiện nay dần dần bị phai nhạt và hầu như không còn ai để ý đến nữa.
Thơ đường đã ảnh hưởng trong nền văn học VN khá lâu trước đây hằng trăm, hằng ngàn năm qua. Tuy nhiên, đến lúc phải chia tay để nhường lại cho một trào lưu nghệ thuật mới. Đầu tiên, thơ Đường Việt Nam được viết bằng chữ Hán, rồi dần được viết bằng chữ Hán nôm và chữ thuần Việt. Nhưng chữ thuần Việt lại không được phát triển bao nhiêu ở thời điểm đó. Vì loại thơ này phải theo một số niêm luật đã làm gò bó trong khuôn khổ, giới hạn ngôn từ, không tự nhiên, ý tưởng đôi khi gượng ép, cho nên mất nhiều thời gian để làm một bài thơ, nhất là thời đó “từ ngữ” tiếng Việt rất ít. Tuổi trẻ hôm nay hầu như không ai đọc hoặc làm những bài thơ theo lối đường luật nữa. Còn ở hải ngoại thì chỉ còn một số người già, còn bám giữ để mua vui một vài trống canh, bạn già với nhau mà thôi. Thơ đường luật cũng đã đi vào quên lãng thời gian trước đây rất lâu. Từ khi phong trào thơ mới du nhập vào VN bắt đầu từ khoảng năm 1932. Và khoảng 23 năm sau khoảng 1955 trên các thi đoàn VN bắt đầu xuất hiện loại thể thơ mới đó là thơ tự do. Thơ mới, thơ tự do là cách gọi trào lưu sáng tác thơ phi cổ điển, chịu ảnh hưởng các phép tắc tu từ, thanh vận của thơ hiện đại Phương Tây. Sự phát triển mạnh của thể thơ tự do, thơ không vần, thơ cấu trúc tự do, từ hình thức, từ câu kệ, dài ngắn…Thơ mới và thơ tự do không chỉ xuất hiện ở VN mà còn là một hiện tượng ở các Quốc gia khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn quốc, Đài Loan, Thái Lan, Malaysia từ cuốn thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc nào rõ rệt. Thơ tự do có lẽ bắt đầu từ bài thơ dịch của Nguyễn Văn Vĩnh La Cigale et la Fourmi trên Trung Bắc Tân văn (1928) mà nguồn thơ mới khởi thảo. Cũng có người cho là từ ông Nguyễn Đình Thi. Lối thơ không niêm, không luật, không hạn chế số chữ trong câu, không hạn chế số câu lại có vẻ thích ứng với đông đảo quần chúng hơn. Và cũng từ phong trào thơ mới, thơ tự do ra đời và loại thơ truyền thống cũng biến dạng thì lúc đó thơ đường luật đã nhanh chóng rơi vào quên lãng không còn sự chú ý của quần chúng.
Hôm nay ở thế kỷ 21 đã ra đời một loại thơ khác đó là thơ Tân Hình Thức. Loại này đã được nhiều giới trẻ và những thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ, ở Anh, Pháp đã ủng hộ, phát triển và phổ biến. Nếu đem so thể loại thơ đường luật và thơ Tân Hình Thức hiện nay, thì phải nói là hai thế giới hoàn toàn xa lạ. Ngay cả thơ Tân hình thức truyền thống của Mỹ cũng không có điểm nào phù hợp với thơ đường. Với Việt Nam hiện nay thơ THT chưa được mọi người chấp nhận rộng rãi, chưa phổ biến, chưa đưa vào văn học Việt giòng chính. Tuy nhiên cũng có nhiều cuộc thảo luận, nhiều cuộc hội đàm, thuyết trình, nhiều cứu xét ở trong nước với những người làm văn học theo phong trào đổi mới thơ hiện nay. Việt nam hiện đang có nhiều website phổ biến rộng rãi, tuổi trẻ đang chú ý và quan tâm thể thơ THT này. Chúng tôi hy vọng đến một ngày nào đó, sự tiến bộ và văn minh nhân loại con người sẽ có cái nhìn khác hơn, sẽ thấy sự đổi mới là cần thiết.
3-Tôi xin phép được nói thêm về loại thơ Tân Hình Thức. Đây là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 «chuyển đổi thế kỷ», và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm 1980 – 1990. Chúng tôi xin trích một vài đoạn trong bài viết của Đặng Tiến về thơ THT để quý vị có thể nắm bắt phần nào về thể loại thơ này. Đây là thể loại mà chúng tôi đã cố gắng trong nhiều năm qua để phát triển, để mang lại một món ăn mới trong lĩnh vực thi ca với mọi người. Mặc dù, nó còn quá mới mẻ, có nhiều người trong thế hệ cha ông khó chấp nhận nó, không thông cảm để làm mới thi ca văn hóa Việt. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn hy vọng lớp trẻ sẽ nhận thức và nhìn thấy tinh hoa của nó trong tương lai gần đây.
Sau đây chúng tôi xin trích dẫn một vài đoạn của Đặng Tiến, một người đàn anh đã cùng sát cánh với chúng tôi trên con đường làm mới thi ca VN với thể loại Tân Hình Thức (New Formalism) với những đặc tính sau đây:
o Thơ không vần, nhịp điệu hoàn toàn khác với thơ cổ điển, nhưng được trình bày trên trang giấy như một bài thơ truyền thống: nhìn vào thì nhận ra ngay là thơ;
o Mỗi dòng như thơ cổ điển, gồm 5, 6, thường là 7, 8 chữ (âm), có khi là lục bát, có thể xếp thành khổ 4 (hay nhiều) dòng. Cứ đến số chữ quy định là xuống dòng, không cần tôn trọng cú pháp, ý nghĩa của câu nói. Từ khổ trên xuống khổ dưới cũng vậy, và cứ vậy tiếp tục. Khi có, khi không chấm câu;
o Để xâu kết câu nói, các tác giả thường kể chuyện, chuyện nọ xọ chuyện kia, khi có khi không mạch lạc;
o Từ vựng đời thường, thông tục, có khi tục, của người bình thường sử dụng hằng ngày, trong sinh hoạt cụ thể. Không có mỹ từ pháp cổ điển như ẩn dụ, hoán dụ, biền ngẫu, nhưng có luyến láy để tạo nhịp cho câu nói.
Chúng ta thử nghĩ xem nếu chúng ta không đưa cuộc sống vào thơ, làm sống chất thơ trong cuộc sống, như vậy là cách tân, thậm chí là cách mạng. Nếu không mang được những câu nói thông thường vào thơ thì làm sao mang được đời sống vào thơ? Và nếu không thì làm sao chia sẻ được nỗi vui buồn của mọi tầng lớp xã hội, để thơ trở thành tiếng nói của thời đại. Ông Đặng Tiến còn viết tiếp:
Ngoài ra, theo tôi, người làm thơ Tân Hình Thức đầu tiên là Nguyễn Văn Vĩnh, khi năm 1914 ông hạ bút viết câu «Ve sầu kêu ve ve», là Tân Hình Thức hết nấc.
Ngược lại, câu vè dân gian: Nghe vẻ nghe ve /Nghe vè đánh bạc /Đầu hôm xao xác… lại là một câu vần vè cổ điển, gần với thi ca truyền thống.
Nguyễn Văn Vĩnh tiết lộ: Trước khi dịch bài ngụ ngôn của La Fontaine, «Con Ve và con Kiến», ông chưa hề làm thơ, nghĩa là chưa tập tành. Câu ve sầu kêu ve ve có lẽ đến tự nhiên, theo ý câu tiếng Pháp, ông Vĩnh không có ý đồ cách tân, tham vọng văn học gì. Nhưng vô hình trung, ông đã thay đổi tương quan giữa thơ và cuộc sống, và bẻ một bước ngoặt trong tâm thức văn học Việt Nam, dù rằng, trong thực tế câu thơ ấy không mấy ảnh hưởng vào văn học. Các nhà thơ sau này mới có ý thức và dụng công cách tân rõ rệt hơn.
Riêng người bạn gắn bó với chúng tôi anh Khế Iêm cũng có nhận định về thơ THT như sau:
«Nhìn lại mọi thời kỳ, từ truyền thống đến tự do và Tân Hình Thức, Thơ như sợi chỉ xuyên suốt, luôn luôn đổi thay, phù hợp với nhịp đập của thời đại». Là một trong những người chủ xướng, có lẽ là người tận tụy nhất với Tân Hình Thức, anh tâm sự: «Mỗi thời kỳ văn học đều có quan điểm thẩm mỹ và giá trị lịch sử của nó, vì không ai có thể phủ nhận. Nhưng có điều nghịch lý là tiến trình sáng tạo cũng là tiến trình phủ nhận. Những điều chúng tôi nêu ra trong thơ tiền chiến hay tự do cũng chỉ là thể hiện tiến trình phủ nhận chính mình vì chúng tôi đã từng sáng tác thơ vần điệu và tự do trước khi chuyển qua Tân Hình Thức » Người bạn tôi đã viết trong số Tạp Chí Thơ : «Tân Hình Thức là một cuộc hòa điệu giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nhiều nền văn hóa khác biệt, và ở phần sâu xa hơn, hóa giải những mầm mối phân tranh đã ăn sâu vào ký ức, chẳng phải của một dân tộc mà của cả nhân loại từ hàng trăm năm trước. Chúng ta với thời gian hơn một phần tư thế kỷ, có may mắn cận kề và học hỏi những cái hay của nền văn hóa bao quanh, áp dụng những yếu tố thích hợp vào ngôn ngữ, để làm giàu cho nền thơ Việt» Thật ra nếu nói về thể thơ THT thì còn rất rất là nhiều, chúng tôi chỉ nêu những nét đại cương, nếu có cơ hội chúng tôi sẽ viết nhiều hơn về thể loại này.
Tóm lại, không chỉ ở VN mà ngay tại Trung Quốc cũng có phong trào thơ mới hay thơ truyền thống phong cách mới đã nổi lên và được nhiều giới trí thức chấp nhận, đề cao và hâm mộ. Trước đây, Trung Quốc đã có một ngã rẽ với loại thơ đường luật hàng nhiều trăm năm trước. Sự đổi mới đó Trung Quốc gọi là thể thơ cổ phong. Những bài thơ làm theo thể này gọi là cổ thi, bắt đầu xuất hiện vào đời Hán. Có ngũ ngôn cổ thi và thất ngôn cổ thi; trong đó có thể xen những câu dài hoặc ngắn hơn.
Thể thơ này không có luật lệ nhất định. Không hạn định số câu. Cách gieo vần rất rộng rãi, uyển chuyển. Có thể dùng độc vận (một vần), liên vận (nhiều vần) hay không hiệp vận. Hoặc là một loại thơ khác gọi là nhạc phủ.v.v.
Đối với Việt Nam Thơ ca Lý Trần các nhà thơ cổ điển lớn như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Trần Tế Xương, Bà Huyện Thanh Quan đa số đều sử dụng bằng chữ Hán và chữ Nôm với thể loại thơ Đường. Nhưng cũng không có được bao nhiêu tác phẩm đã để lại cho hậu thế và cũng không có bao nhiêu Thi sĩ chuyên về thơ đường. Ngày xưa Ông Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ “Hàn Luật”, là sự kết hợp thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt trong đó ông cũng có mục đích muốn làm mới thi ca Việt. Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. (cải biến từ hai thể “thất ngôn tứ tuyệt” và “thất ngôn bát cú”. Tuy nhiên “Hàn luật”. Lối thơ Đường luật Việt hóa này đã không được các thế hệ thi nhân đời sau kế thừa và phát huy. Đồng thời trong những năm của thế kỷ XX, văn đàn VN đã xuất hiện nhiều thế hệ nhà thơ trẻ, những người tiên phong trong phong trào thơ mới như: Xuân Diệu, Hàn Mạc Tử, Nguyễn Bính, Huy Cận, T.T.K.H, Thế lữ, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tế Hanh, Vũ Hoàng Chương, Tản Đà, Thâm Tâm, Đoàn Phú Thứ, Anh Thơ.v.v.
Bài viết quá dài, số trang có giới hạn, chúng tôi xin chấm dứt ở đây. Nếu có cơ hội chúng tôi sẽ viết một số bài về hiện tượng làm mới trong lĩnh vực thơ Trung Quốc hôm nay và trước đây, để cống hiến cho quý vị yêu thơ. Thật tình mà nói thơ đường luật đời nhà Đường thời thịnh hành cũng không có nhiều Thi sĩ làm thơ đường luật lắm, theo chúng tôi chỉ có vài nhân vật nổi tiếng như: Vương Bột, Bạch Cư Dị, Đỗ Phủ, Lý Bạch.v.v. Tổng số thơ của nhiều tác giả gôm lại cũng chỉ hơn 49 ngàn ngàn bài, nhưng nếu tuyển chọn cũng chỉ khoảng 300 bài thôi trong “Đường thi tam bách thủ”. Tuy nhiên thơ đường thời đó cũng không có bài nào lừng danh thế giới để đời cho nhân loại. Chỉ có những nước bị ảnh hưởng văn hóa Tàu thì còn lưu luyến những thể loại này mà thôi.
Tóm lại, hiện nay thơ trở thành hình thức nghệ thuật hầu như ai cũng biết đến, nhất là người Việt ai cũng là một nhà thơ cả. Nếu ai đã từng cắp sách đến trường thì nhiều ít gì cũng thuộc vài câu thơ. Thơ dùng để tỏ tình, để giải bày tâm sự, để than thở thân phận, để đọc cho vui khi chén tạc, chén thù. Thơ cũng là một hình thức để bày tỏ tâm tư của mình. Để ghi lại những kỷ niệm buồn vui, một cột móc thời gian, để nói lên một triết lý sống của nhân sinh. Hy vọng bài viết này chia sẻ được phần nào với quý vị trong những ngày xuân. Thơ là một nghệ thuật nó phải thay đổi theo thời gian, theo nhân sinh quan của con người. Cho nên sự thay đổi mới và sáng tạo là điều phải xảy ra, những gì không còn hữu dụng, không thích hợp với thời đại mới nên xếp lại hay tự nhiên sẽ bị xóa bỏ. Giòng đời và đà văn minh nhân loại không thể đứng yên một chỗ để trở thành lạc hậu và đi lùi lại thời gian với đà tiến hóa văn minh khoa học ngày nay.