Mới quý độc giả thưởng thức về cảm nhận mùa thu qua thơ văn của Cao Xuân Thanh Ngọc mặc dù bây giờ là mùa đông nhưng vẫn cảm thấy có cái gì đó rất lãng mạn của mùa thu…
Cao Xuân Thanh Ngọc
Thi Ca có tánh xa rời đời thường, vì thi ca là sự bay bỗng của cảm tính, là tâm hồn vượt thoát cõi bó buột của hệ lụy ràng giữ làm trì trệ, vôi hóa đời sống tinh thần con người vốn lãng mạn, viễn mơ, ảo tưỏng với tình yêu trăng sao, thiên đường cõi mộng lơ lửng giữa hư không ít nhiều ngoài thực tế…
Tính chất của Thi Ca thật luyến ái, trữ tình, lãng mạn nhân tính được thể hiện qua nhân tình trong nhiều cảo thơm với những Văn – Thi Sĩ lừng danh trong Văn Học Sử Việt Nam; trong ngôn ngữ của Thi Ca dù là Âu hay Á tự “nó” có tính chung làm rung động, xao xuyến tâm hồn con người không có biên giới của thói tục phàm nhân phân ranh cảm tính, tâm tình…
Nhưng thôi, hãy tạm gát câu chuyện miên mang trường thiên thi ca Việt Nam…Thanh Ngọc chỉ tạm “mạn đàm” tới một số câu thơ của những bài Thơ có nét thi ca lãng mạng của nhà thơ Lưu Trọng Lư và Bùi Giáng, và riêng Thơ của thi sĩ Bùi Giáng thì Thanh Ngọc chọn những bài thơ theo thể loại Lục Bát, vì theo Thanh Ngọc đây là nét đặc thù của nền Thi Ca Việt Nam không thể nhầm lẫn với dân tộc, quốc gia nào khác. Và cũng vì bởi mùa Thu tại California đã len lỏi vào tâm hồn của cô gái Việt còn nhiều hoài niệm về mùa Thu quê mẹ Việt Nam bên kia bờ đại dương khó phai mờ…!
Không gian vô tận, thế gian dường như cũng trôi lăn vô tình với vạn cảnh biến thiên vô thường nay nương dâu, cồn cát, mai đã trở thành sông hồ biển cả mà đời người trăm năm thân thế có là bao? Nhưng sự vận hành của trời đất vần xoay với bốn mùa Xuân – Hạ – Thu – Đông rồi lại Xuân như dòng qui luật trật tự không ngừng nghỉ, không đoạn tận…Khi làn gió nhẹ thổi man mát lung lay đọt chồi non hoa lá cội mai vàng, làm bay phất phơ những sợi tóc mai trên khuôn mặt cô gái xuân thì vào lúc nửa khuya đêm giao thừa…Ô hay,… tiết Xuân báo hiệu khởi đầu năm mới và cũng đã có nhiều Văn Thi Sĩ cảm tác biết bao tác phẩm diễn tả tâm tình và tài hoa với mùa Xuân sinh:
春風不相識,
何事入羅幃
(Xuân Tứ – Lý Bạch)
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi
Dịch:
Ai nào biết gió xuân hữu tình ,
Trêu em cứ thổi phòng loan động rèm.
Khi những vạt nắng sáng ấm áp lấp lửng trên ngọn cây ven đường và dòng đời hối hả nhộn nhịp, những cô thiếu nữ khoe chiếc áo màu tươi thắm rực rỡ như báo hiệu tiết thời Hạ chí, là nét Hạ trưởng sinh động, đóa hoa đã nẩy nở trổ hết sắc màu…Trời đất đã thế, tình người cũng giao cảm mà sinh Thi Nhạc ca ngợi, vui vẻ và đau thương với bao cảnh tình mùa Hạ.
Mùa hạ đến tiếng ve buồn như khóc
Trong sân trường trơ trọi những hàng cây
Màu mực xanh còn đậm nét thơ này
Trang lưu bút còn thơm mùi mực tím.
Nhưng với tôi mùa Thu gần như là một cõi của riêng mình với khung cảnh mang mang trong nỗi nhớ mùa thương cũ, có những cơn gió heo may thổi len qua hàng cây phong trước nhà đã bắt đầu thay màu lá, bầu trời không còn trong xanh, vạt nắng nhẹ như không lan tỏa được khắp mái hiên ảm đạm và những chậu hoa cúc đang trổ nụ hé vàng chờ nở…Ôi “cái” khung cảnh buồn len lén tâm hồn…Tôi đã hiểu cảnh trời Thu liễm vạn vật hối tàn như vào giấc ngủ chờ tàn tạ vào mùa Đông tới ! Nhưng cảnh thu trong bức tranh thủy mạc cổ vẽ những bông cúc có đóa nở hàm tiếu, có đọt chồi và mấy nụ non, cũng có bông tàn tạ khô héo mà vẫn không rơi rụng…Thi vị hóa cảm khái nét chung tình của hoa Cúc dù tàn tạ vẫn không rời thân gốc:
Cúc nở mùa thu vàng thử tiết
Chung tình tàn tạ bất ly thân
Và đã “nói” tôi ôm mùa Thu vào vọng tâm ngày tháng cũ, bấy giờ tôi chỉ là cô thiếu nữ đa sầu, đa cảm còn ôm cặp vở trên lối đi tới trường qua những hàng cây phong chớm thu:
Thu !
Trời mới vào chớm thu
Lá phong chưa vàng úa
Em chưa mặc áo lụa
Biết có ai nhìn không ?
(Thanh Ngọc – Thu 2024)
Và thả hồn viễn du xa xa tiếng ca nữ hát Điệu Thu Ca buồn thê thê cô lữ:
Trời đã sang mùa thu
Đường mây pha sương mù
Thu ca hồn vạn lý
Ai hát buồn thiên thu !
Ca nữ em hát đi
Khúc hát buồn chia ly
Tiếng đàn vương theo gió
Hồn thu rơi phương nào ?
(Điệu Thu Ca – Thanh Ngọc)
Để “nói” mùa Thu với thi sĩ Lưu Trọng Lư, thì có lẽ bài thơ Tiếng Thu là dấu ấn thể hiện tính cách trữ tình, lãng mạn rất riêng của tâm hồn đa sầu, đa cảm của nhà thơ đã dệt thành áng thơ mượt mà cho đời còn vương Thi Ca, và để cho người còn tương tư Tiếng Thu tài hoa của Thi Sĩ. Quả thật như thế! Có ai đọc Tiếng Thu mà không tưởng chừng, hay không ngỡ rằng mình đang nhìn thấy trong ngữ cảnh đang mùa Thu kỷ niệm, mơ hồ nào đó với khung trời tịch liêu, khu rừng thưa có ánh trăng mờ, con nai vàng ngơ ngác đạp lên lá vàng khô kêu xào xạc mùa thu tái quan san… Có ai chạnh tình hiện bóng chinh phu trong lòng người cô phụ …Ôi,…nỗi yêu thương da diết em nhớ chàng!
Tiếng thu
Em không nghe mùa thu
dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
hình ảnh kẻ chinh phu
trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu.
lá thu kêu xào xạc,
con nai vàng ngơ ngác
đạp trên lá vàng khô?
(Tiếng Thu – Lưu Trọng Lư)
Nhưng với thi phẩm Vì Sương Thu Đỗ, thì nhà thơ Lưu Trọng Lư đã như “sang trang” chỉ còn có Ý thơ, mà thể chuyển chở thơ đã sang bờ bến lạ…! Biết có còn nét đặc thù của thơ Lưu Trọng Lư không?
Ôi! cái đẹp nghìn thu, huống gì ai thắc mắc.
Lặng im nàng đếm giọt sương gieo,
Cùng với sương thu, lệ nhỏ theo…
Nếu phải vì ta, mà thổn thức,
Em buồn, há chỉ vì anh?
Này anh hỡi, kề tai em gạn nhỏ
(Vì Sương Thu Đỗ – Lưu Trọng Lư)
Với thi sĩ Bùi Giáng thì Thanh Ngọc không có đủ trình độ Văn Hóa và văn tài hàn lâm vượt thoát qua cõi tục lụy để bình phẩm Thi Ca đặc biệt có một không hai trong Văn Học Sử Việt Nam. Thi sĩ Bùi Giáng xuất khẩu và phóng bút như đùa cợt với từ ngữ thi thánh, gieo vần thơ như hí họa với nhân gian cõi tạm trăm năm một đời người khác gì một giấc chiêm bao…Bùi Giáng đến với cõi nhân gian này như gả cuồng sĩ, đạo sĩ, vị hành giả hành tung lãng đảng mù khơi ngày ngày dạo chơi với nhân tình thế thái, lúc mệt mỏi gối đầu trên mây ngủ hồn nhiên vô tư như trẻ thơ không vướng mắc muộn phiền…Trong ánh mắt hiền lành của Bùi tiên sinh nhìn chúng sinh cõi người nhộn nhịp, tất bật lặn hụp chụp bắt tương lai như loài trùng hoang thiếu cánh trôi lăn miên viễn đến đâu, về đâu trong cõi vô thường này …? Cao hứng, ngẫu hứng và “nỗi cơn” nói ra thơ, la hét ra thơ, lấy mẫu giấy rách viết vài dòng chữ thành thơ, đói ăn mẫu bánh vụn ven đường, uống ngụm nước mưa rơi rớt hột ở mái hiên nhà người, nhảy múa chân thấp, chân cao với ống quần sờn gấu, rách bươm tay vung vít ca múa trong cơn “điên tỉnh” ra thơ và tất cả đều trát tuyệt …! Nếu không có kiến văn Thiền học và Phật pháp uyên thâm thì khó có hiểu ngôn ngữ thi ca bàng bạc đạo vị cõi chân như của bậc hành giả cô thân vạn lý du Bùi Giáng:
Bình bát cơm ngàn nhà
Thân chơi muôn dậm xa
Mắt xanh nhìn trần thế
Mây trắng hỏi đường qua.
(Trương Trừng Cơ)
Thế nhưng “cái” nét lãng mạn rất người của ông cũng đã cho chúng ta nhận biết thi nhân dù có tài thần thơ, thánh thi cũng rất nhân sinh phong hoa tuyết nguyệt với cuộc đời đa tình, đa sầu, đa hệ lụy…trong tập thơ Mưa Nguồn.
Tôi về giữ mộng mù khơi,
Kết thành vinh tượng cho đời chiêm bao.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh
Hay như:
Tình yêu rất mực tò mò
Dịu dàng phía trước, dẫm dò phía sau
Tình yêu muôn sắc muôn màu
Mùi hương chỉ một tiêu tao tận cùng.
(Mưa Nguồn – Bùi Giáng)
Cao Xuân Thanh Ngọc – California tháng 12 – 2024.