SUSAN BOYLE: TIẾNG HÁT THIÊN CUNG

0

HÀ BẮC

 Hát thánh ca là cầu nguyện gấp bội phần”! (Saint Augustino)

 Xuất thân từ một gia đình Công Giáo sùng đạo ở Scotland; mặc dù bị tổn thương não bẩm sinh, Susan đã từng bước lên đài danh vọng quốc tế từ các bài hát “đạo” trong tập nhạc Christmas “Child In A Manger”. Gọi là “từng bước” vì cô được tôi luyện trong một gia đình ai cũng biết hát; rồi cô dự thi “Britian‘s Got Talent” hôm 21/1/2009 vốn được chiếu trên TV hôm 11/4 năm ấy, ngày được kể là bắt đầu sự nghiệp ca hát của cô năm 14 tuổi.

Cô tên Susan Magdalane Boyle; sanh ngày 1/4/1961 với chứng tổn thương não (perinatal asphyxia) tuy không trầm trọng nên được xuất viện sau vài tuần điều trị tại Bangour Hospital. Là con thứ 9 trong gia đình nên chị cả Mary năm ấy 23 tuổi đã làm “mẹ đỡ đầu” (God-mother) trong lễ “rửa tội” (baptême) chủ sự bởi cha xứ Michael McNulty; và phải phụ chăm sóc cô. Bố Patrick Boyle là thợ mỏ, cựu binh WW II. Mẹ Bridget (gọi tắt là “Bridie” như tên của con gái) dòng họ McLaughlin quê tại Motherwell, ngoại ô Glasgow ở N. Ireland. Bà mồ côi cha hồi thế chiến I, mồ côi mẹ năm 19 tuổi. Họ cưới nhau năm 1936 và quan niệm Công Giáo không chỉ là tôn giáo mà còn là căn cước của tín đồ Scotland. Thế mà có 2 con lập gia đình với người ngoài CG khiến gây lục đục trong nhà.

Gia đình dời đến Blackburn thuộc ngoại ô Edinburgh cách đó 15 dặm hồi thập niên 1960s; sau định cư tại West Lothian ở Scotland. Cả nhà thường quỳ đọc kinh tối mỗi ngày và cùng đi bộ đến nhà thờ giáo xứ “Lady of Lourdes” dự lễ 9 giờ sáng mỗi chủ nhật. Cả nhà cũng đều phục vụ giáo xứ bằng khả năng sẵn có: Bố Patrick hát giọng “tenor”. Mẹ pianist của ca đoàn; đến nhà thờ hai lần hàng ngày. Chị Mary hát trong ca đoàn giáo xứ. Anh John có giọng tựa Gene Pitney. Anh Gerard có giọng khàn tựa Neil Diamond.

Susan rất yêu truyện “Bernadette” được Ste Mary hiện ra ở Lourdes bên Pháp, vị thánh nữ sinh trưởng trong một gia đình cũng có 9 anh chị em như gia đình cô. Cô thích phim “The Sound of Music” vốn ra đời năm cô 4 tuổi. CD đầu tiên “I Dream A Dream” lấy tựa từ phim “Les Misérables”. “Child In A Manger” là bài hát đầu tiên cô hát solo khiến trẻ con cùng trang lứa phải há hốc miệng kinh ngạc; giáo viên và phụ huynh trong trường đều tán thưởng nhiệt liệt. Nhờ được chọn hát cho ca đoàn nhà trường, cô có được bạn gái đầu tiên Lorraine Campbell học cấp 4 sau cô một cấp lớp; sau này là cố vấn của cô. Trong một cuộc thi hát do trường tổ chức năm Susan 10 tuổi, cô hát bài “Ye Banks and Braes” đoạt giải nhì. Giải nhất là nam sinh tên Charles Kelly. Cùng năm ấy, chị Kathleen lấy chồng khiến Susan khóc vì từ đó phải ngủ một mình trong phòng dành cho hai chị em. Kathleen dạy cô nhiều điều và cũng là “Godmother” dịp lễ cô chịu phép “Thêm Sức” (Confirmation).

Susan thường làm babysitter của bé Pamela, con gái chị Kathleen. Các anh chị trong nhà đều lần lượt lập gia đình và ra riêng; chỉ còn lại Susan và Gerard. Cậu Michael cô độc đến ở chung với gia đình cô. Cậu mồ côi cha lúc còn trong bụng mẹ: Ông ngoại John McLaughlin tử trận ở Ypres hồi 1917. Cậu chậm phát triển phải học lớp dành cho trẻ khuyết tật; đã thế lại mồ côi mẹ năm 18 tuổi nên phải nội trú trong nhà tập thể. Cậu dễ nổi nóng nên có lần gây gổ với bố cô nhưng bố không chấp. Susan có radio riêng năm 12 tuổi và thích nghe show của Terry Wogan nên bắt đầu tập viết truyện với nhân vật cùng tên. Cô thích bài hát “Puppy Love” và ca sĩ Donny Osmond khi mới vào tuổi teen và cho rằng ca sĩ này hát bài ấy dành cho riêng mình!? Susan không bao giờ quên Christmas năm cô 13 tuổi khi anh Gerard đã đi làm và mua tặng cô chiếc phonograph có hai tốc độ 45 và 33 vòng; đặt dưới cây thông Noel cùng dĩa LP có bài “Puppy Love”. Susan hát theo dĩa hay đến độ gia đình không phân biệt được giọng nào phát từ dĩa. Trước Giáng Sinh 2009, cô được mời dự lễ khánh thành khu tiếp cận của St Kentigern’s Academy do ĐHY Keith P. O’Brien chủ tọa. Trường này mở năm 1973 ở ngoại ô Blackburn nay cần nới rộng theo nhu cầu.

Bệnh bẩm sinh dù nhẹ nhưng vẫn khiến cô hay la hét hoặc khóc mỗi khi thức dậy. Bà Bridie đã phải nhờ cô Bakie giúp cho cô vào viện tâm thần Bangour General; không phải nằm viện nhưng để điều trị dưới dạng “volunteer” tiếp xúc và an ủi bệnh nhân tại đây. Sau khi được mẹ cho đi viếng đền Lộ-Đức bên Pháp, cô có thêm nghị lực nảy sinh giấc mộng làm cô giáo. Mộng không thành vì không đủ điểm sát hạch tại Moray House, văn phòng tuyển sinh của ngành ở Edinburgh, nơi ĐGH John Paul II đến tông du và giảng cho giới trẻ Scotland tại Murrayfield. Vị Giáo Hoàng từng đến thăm cơ sở từ thiện St Joseph của các Sơ dòng St Vincent de Paul nuôi dưỡng trẻ khuyết tật và tâm thần. Tại đây vị GH cũng gặp ông Frank Quinn, người sau này là tư vấn của Susan.

Ở tuổi 23, Susan đã lén đi bộ một mình đến Happy Vally Club nằm trên đường đến chợ và nhà thờ. Tại đây nhiều người biết cô; kể cả manager Jim Morphy, người đã giới thiệu cô lên sân khấu hát một bài và một bài nữa theo yêu cầu “bis” của khán thính giả. Tiếng vỗ tay tán thưởng nồng nhiệt khiến cô từ đó mỗi tối thứ năm hàng tuần đều lén đến đó để hát. Ông bố nghi ngờ theo dõi bắt quả tang “tại trận”; định cản nhưng đã bị cô con gái thuyết phục để ông cùng vào theo. Tại đó ông được mời hát một bài; sau thấy an tâm, ông để cô lên hát tiếp và không cản ngăn nữa. Từ đó cô đến công khai và thường xuyên; thậm chí còn hát cả ở Bowling Club ở Blackburn nữa.

Cô hụt xin một job ở Community Center nên chờ cho hết hạn volunteer ở BCC rồi ghi danh học BA về Social Science tại Open University; và lớp hè tại Stirling University năm 1985; đi bằng xe lửa. Năm sau 1986, Susan ghi danh học lớp hè một tuần tại Keele University môn nhạc, bi kịch, nghệ thuật sử và văn chương Anh ngữ. Cuối lứa tuổi 20s, cô có “boyfriend” trong vỏn vẹn 6 tuần; gặp trong một đám cưới. Cô miêu tả bàn tay anh “bồ” tên John sao khác hẳn bàn tay của mẹ cô! Chiếc hôn ngắn ngủi của anh ta cũng để lại vết tích tồn đọng trên da lâu đến nhiều giờ sau! Cú phôn anh ta gọi cô sau nhiều ngày mong đợi đã đến nhưng “xui xẻo” thay lại bị ông bố khắc nghiệt “phỗng tay trên”: Ông bảo chàng John rằng đừng gọi lại nữa vì “Susan không muốn nói chuyện với anh”; thế là toi “mối tình đầu yểu mệnh”! Khi cô hỏi bố ai gọi lại, bố cô phán câu “xanh dờn”: “mày chưa sẵn sàng để có boyfriend đâu đấy nhé”! Buồn quá, Susan đến Tam O’Shanter Club ở Coventry, nơi Jimmy chồng chị Bridie sinh hoạt. Tại đây, cô được anh rể giới thiệu để hát với cử tọa hàng ngàn người vì là tối thứ bảy. Cuối thập niên 1980s, BBC tái tổ chức chương trình “Opportunity Knocks” từng có trước kia trên ITV. Susan dự thi với bài hát đạo “I Don’t Know How To Love Him” trong dĩa “Jesus Christ Superstar”. Hát xong, cô được khán giả nói tay họ “nổi da gà”!

Susan ghi danh học diễn xuất tại Edinburgh Acting School. Sau hai năm học, cô được huấn luyện viên về thanh nhạc Fred O’Neil khen ngợi. Nay có chút “vốn” trong túi, cô bỏ tiền mướn Hearthbeat Studio, một phòng thâu CD chuyên nghiệp ở Edinburgh để thâu thử 3 bài “tủ” và nghe chính mình hát xem sao. Sau một ngày thu thanh trong phòng kính cách âm, cô có được CD “đầu tay” đem về khoe với mẹ. Sau đó, cô dự thi hát tại Whitburn Miner’s Welfare Club; đoạt giải nhì 1,000 bảng Anh. Lần đầu có số tiền lớn do chính công sức mình làm nên, cô liền ghé tiệm vàng mua một dây chuyền cho mình và một clock mạ vàng tặng mẹ.

Trong tiệc kỷ niệm chu niên 60 năm thành hôn của cha mẹ hồi 1996, cô buồn nhưng đã vỗ tay tán thưởng mạnh nhất có thể để khỏa lấp phần nào sức sống của giọng ca vốn đã yếu hẳn thấy rõ của bố khi ông hát “Scarlet Ribbons”. Ở lứa tuổi 80s của cha mẹ, bố cô vẫn không ngừng sửa hàng trăm thứ bệnh của xe cộ trong garage; mẹ vẫn ngốn 4 quyển sách mỗi tuần mượn của thư viện để truyền thụ kiến thức cho cháu, chắt trong nhà. Bà tốn nhiều giờ trước dá vẽ đặt trên lầu; lấy nguồn cảm hứng phần lớn từ hình chụp để cho ra các bức tranh mà có chiếc đủ tiêu chuẩn và tầm vóc để triển lãm ở thư viện. Riêng bức tranh treo ở phòng khách của bà đã được truyền bá rộng khắp năm châu khi nó vô tình được ống kính của giới truyền thông thưởng ngoạn trong dịp họ đến phỏng vấn cô con gái ca sĩ nổi tiếng.

Susan miêu tả duyên dáng một trong 4 con mèo của gia đình tên “Jake” (“dân homeless” do “bạn gái Bagpuss” của nó rủ rê về nhà) đã ngang nhiên chiếm chiếc ghế bành của bố cô ở phòng khách. Nó lỳ lợm nhiều lần nhất định đuổi không chịu đi khiến bố cô đành phải nhượng bộ chấp nhận “mất ghế”, chiếc ghế mà trong gia đình không ai dám đụng đến! Thế là ông chủ nhà quyền uy bị hất ra ngồi ké trên chiếc ghế dài cạnh đó để cùng nó xem TV mỗi ngày! Trong “thâm cung bí sử” gia đình còn có vụ cô ca sĩ nổi tiếng … lười dọn dẹp nhà cửa; bị bà chị Mary trách móc lười hút bụi phòng của chính mình. Thế là bà chị bị cô em xém lừa một vố: Susan mở máy hút bụi ầm ĩ nhưng vẫn tỉnh bơ nghe nhạc bằng headphones. Lần này bà chị Mary nghi ngờ bèn leo lên lầu và bắt quả tang vẫn … lười như xưa! Thế nhưng bệnh … lười của Susan vẫn vững … như bàn thạch nhờ mẹ bênh vực; mắng bà chị Mary “thân ai nấy lo; đừng xía vào việc của người khác”!

Dịp lễ Phục-Sinh 1999, bố cô bất ngờ lâm bệnh nặng về hô hấp và đường ruột; phải vào St John Hospital điều trị nhưng không qua khỏi. Susan cảm thấy hối tiếc đã không gần gũi bố bằng mẹ; đã không biết rằng sự cương nghị, mẫu mực của ông bố sùng đạo, hội viên Légio Mariae là sự hy sinh vô bờ để bảo vệ hạnh phúc gia đình; được cộng đoàn giáo xứ và cộng đồng xã hội công nhận và kính nể. Nhưng con cái không phải đứa nào cũng nhận ra. Susan hối hận vì đã khiến bố lo âu nhiều nhất nhưng lại chưa hề ngỏ một lời xin lỗi.

Sau 63 năm hạnh phúc, nay mẹ cô lủi thủi một mình với con mèo Pebbles, con vật mà bà gọi trìu mến là “wee hairy baby”, đối tượng duy nhất trong nhà khiến bà mỉm cười lần đầu tiên sau nhiều tuần chịu tang chồng. Có thể gọi là “họa vô đơn chí” vì gia đình lại có thêm tai họa khác: Cô chị hạp nhất Kathleen bất ngờ bị chồng làm ăn xa tận Na-Uy bỏ rơi; không gởi tiền chu cấp hai mẹ con nữa khiến chị và con gái Pamela phải làm việc vất vả cực nhọc hơn. Bệnh suyễn của chị nặng hơn và một cơn suyễn đã lấy đi mạng sống của Katghleen ở tuổi 53! Viễn cảnh bà mẹ vẽ ra là sau khi bà qua đời, Kathleen sẽ là người thay mẹ trông chừng cô em gái Susan độc thân; nay đã tan thành mây khói! Kathleen mất sau chuyến viếng đền Lady of Fatima bên Portugal; có lẽ như để gởi gấm linh hồn mình nơi đó!

Tờ báo The West Lothian Herald & Post đăng tuyển nghệ sĩ trong vùng để trình diễn nhân dịp thiên niên kỷ 2000 do Whitburn Community Council tổ chức. Susan nộp CD “Cry Me A River” cho ban giám khảo 5 vị. Sau vài tuần, Charles Earley của BTC gọi báo cho biết bài hát sẽ được nằm trong CD cùng tên với show “Sounds of West Lothian” thu buổi hòa nhạc “The Millennium Celebration Concert” diễn ra hôm 28/4/2000 ở hội trường Whitburn Academy. Có 2 dàn nhạc nổi tiếng và có cả ca đoàn Bathgate Menzies Choir của cô chị Mary trình diễn 2 bản thánh ca nữa! Cử tọa khoảng 300 chưa kể khách VIP và 1 dân biểu trong số đó. Dĩ nhiên có cả mẹ cô ngồi đâu đó. Susan thú nhận lần đầu hát trong một buổi lễ trọng thể đến thế khiến hai chân cô run rẩy khi bước ra sân khấu. Tuy nhiên, nụ cười rạng rỡ trên môi cô sau tiếng vỗ tay vang dội đã đủ sức của cái nạng vực dậy đôi chân ấy.

Sau đó, cô cũng hát cho ca đoàn Tocata Ladies Choir ở Livingston vốn từng trình diễn ngoài trời ở công viên Howden dịp Christmas hàng năm. Và để bù đắp thiếu sót về chữ Hiếu bấy lâu nay, cô ghi tên học khóa “Caring” để được đích thân chăm sóc mẹ già thay vì để cho y tá chuyên nghiệp làm việc này. Thế nhưng cô đã phải bỏ khóa học vì sức khỏe của bà mẹ sa sút quá nhanh khiến cần gấp y tá trúc trực 24 giờ mỗi ngày. Mẹ cô dịp Christmas 2006 ấy đã trăn trối rằng đó là dịp lễ Giáng Sinh cuối cùng mà bà còn tại thế. Bà dặn dò cô rằng hãy chăm sóc nhà cửa, con mèo Pebbles và luôn nhớ mình là con của mẹ. Bà nhập viện cấp cứu hôm 6/1/2007 và qua đời êm ả nửa khuya hôm sau ở tuổi 91. Trước khi tắt thở, mắt bà sáng lên, con ngươi xanh hẳn lên như vừa thấy ai đó thân quen đến dắt mình đi về miền vĩnh phúc!

Susan đi lễ thường xuyên hơn sau đó vì tại nhà thờ, cô cảm thấy như có mẹ bên cạnh hơn mọi nơi khác. Cô vào hội Legio Mariae ở Whitburn, nơi bố từng là hội viên làm vô số việc từ thiện. Cô hát “I Dreamed A Dream”, melody của phim Les Misérables năm ấy dành cho mẹ theo gợi ý của Charles Earley.

Chương trình Britain’s Got Talent bắt đầu chiếu trên TV đợt đầu từ tháng 4/2007. Tại cuộc thi đầu tiên, ban đầu có tiếng xì xào đánh giá thấp Susan căn cứ vào vóc dáng “cục mịch”; thậm chí có kẻ nói “rớt là cái chắc”! Tuy nhiên vừa hát xong câu cuối; chưa kịp nghe khúc dạo kết thúc bản nhạc từ CD, cô đã nghe tiếng vỗ tay nồng nhiệt, tiếng chân đứng lên rầm rộ. Có tiếng la “come back!” và cả ban giám khảo 5 vị cùng đứng dậy vỗ tay; mặc dầu chỉ có 3 giám khảo bấm “Yes”. Susan lần đầu trên sân khấu cảm tạ bằng cái hôn gió bung ra từ đôi bàn tay bụ bẫm. Hôm 1/4/2009 đến London để xem kết quả vào kỳ thi bán kết sắp tới, Susan đã 48 tuổi. Tối 10/4 năm ấy, BBC vừa chiếu trên TV cuộc thi Britain’s Got Talent; liền sáng hôm sau nhiều nhà báo đến gõ cửa nhà cô. Cô phải nhờ anh John đến cho đỡ sợ hãi. Bất ngờ nhất là đám trẻ trong khu phố mọi khi thường chế diễu cô, nay cũng kéo nhau đến xin chữ ký và chụp ảnh chung bằng cellphones của chúng để tỏ lòng ái mộ.

Chỉ sau buổi tối phát cuộc thi Britain’s Got Talent hôm thứ bảy trên TV của BBC, từ kẻ vô danh ở Anh, nay Susan là ngôi sao quốc tế từ sáng chủ nhật. Anh út Gerard, ca sĩ địa phương cho rằng danh tiếng ấy của cô không phải một sớm một chiều mà có vì Susan đã đi từ ca đoàn trên gác hát nhà thờ; qua thử thách trên nhiều sân khấu địa phương từ tầm vóc Ireland đến tầm vóc UK mới có hôm nay. Chị Bridie thì đùa ghẹo trên phôn khi gọi chúc mừng; rằng “khi nào nổi tiếng và giàu có thì đừng quên tao đã cho mày đôi giày boot Wellington để lên sân khấu đấy nhé!”. Susan cũng đùa ghẹo lại đáp lễ: “ừ thì chừng đó chị cứ lấy lại đôi giày là xong!”. Hàng loạt bạn bè và khán thính giả cũ mới đều gọi lại chúc mừng cô. Chiếc phôn nhà reo không ngừng suốt ngày đến tận khuya chưa dứt.

Sáng thứ hai sau đó, nhiều chiếc van của các hãng truyền thông tấp nập đến nhà cô; phóng viên đến gõ cửa ầm ĩ khiến vài hàng xóm khó tính của khu phố yên tĩnh này ra mặt phản đối họ. Susan không dám mở cửa và phải gọi đại diện nhà sản xuất để xin ý kiến. Bà này đổ lỗi cho YouTube mà cô không biết vì không có computer và internet. Nguy ngập hơn nữa, không chỉ báo chí UK mà còn cả báo Đức, Croatia ..vv.. nên bà phải cử người đến nhà cô để trả lời phôn. Các phóng viên hỏi đủ thứ; vặn vẹo kiểu hóc búa, rào trước đón sau như gài bẫy khiến cô như con nai trước nanh vuốt cọp beo; kẻ yêu, người tỵ hiềm đủ loại. Có kẻ còn hỏi về Pebbles vì lầm tưởng là “người” nhà. Lorraine đem lại cho cô tờ báo có bài gọi Susan xách mé là “hairy angel” ngụ ý cô có đôi lông mày không cạo nhổ. Susan không bị xốc vì trước đây cô còn bị châm biếm nặng hơn thế nữa. TV thì chiếu cô phì nộn hơn ngoài đời; lưng to như cái phản.

Gia đình cô bất mãn khi báo chí có kẻ còn dám xúc phạm cả người mẹ quá cố của Susan. Họ cho rằng mẹ cô chính là “thủ phạm” nhốt cô trong nhà để chăm sóc bà nên cô mới thiếu kinh nghiệm trường đời đến thế. Mọi tọc mạch, soi mói, bịa đặt đều phát xuất từ internet, YouTube; mà nhờ các cháu gái cô mới hay biết. Vài tờ báo còn bịa đặt bằng hí họa vẽ cô star “chống ề” áo mạ vàng sống với con mèo Pebbles màu đồi mồi; trong khi thực tế con mèo màu “đơ cu-lơ” đen trắng! Chắc “báo lá cải” ấy ngụ ý rằng đã là stars thì phải lộng lẫy, xa hoa, phung phí và “đổi chồng như thay áo” mới phải hay chăng!?

Trong một lần đến tiệm tóc để nhuộm, Susan đã phải nhờ hai cô cháu Pamela và Joanne dùng 2 xe; trong đó chiếc chở Susan có trẻ con để đội quân phóng viên (paparazzi) không dám chụp ảnh vì phạm luật. Chiếc kia dùng để chèn sát phiá sau không cho xe của đám này lọt vào bám sát. Thế mà vừa ra khỏi tiệm đã có mấy “du kích” paparazzi trực sẵn chụp ảnh tới tấp, đèn flash chớp lia lịa! Sáng hôm sau, một tờ “lá cải” đăng bài về cô với tựa “Dye Me A River” (nhái tựa “cry me a river”) để nhạo.

May thay, cứ một “bình loạn” thì lại có hàng tá bình luận trên internet bênh vực cô: Báo Times gọi cô là “lực lượng báo thù” cho những nạn nhân vô tội; báo Guardian nêu rõ hơn nữa vai trò ấy qua dạng câu hỏi “liệu Susan Boyle trông xấu hay chính chúng ta xấu?”. Ngoài vô số thiệp chúc, quà cáp và lời an ủi của bá tánh, quan trọng nhất vẫn là thiệp chúc in ảnh chụp chung với ĐGH Jean Paul II của ĐHY Keith Patrick O’Brien ở Scotland. Thiệp viết ngài hoan hỉ thấy cô vẫn ngoan đạo; rằng đọc báo thấy cô dự lễ Phục-Sinh tại nhà nguyện ở Whitburn thay vì tại giáo xứ Lourdes để tránh xa đạo quân truyền thông báo chí bao vây đợi ở đó.

Susan có lòng tự trọng cao trong một dịp ghé nhà hàng gốc Hy ở London khi cô từ chối lời mời ngồi chung bàn của 2 giám khảo Yvie và Nigel vô tình đến trước. Cô e rằng nếu bị paparazzi chụp ảnh đăng báo, công chúng có thể nghĩ rằng điểm hai vị chấm sẽ có sự thiên vị. Một lần khác cũng ở London, nhóm phóng viên Nhật đông đảo bao vây cô; cúi chào lễ phép nhưng nói gì nhiều và nhanh lắm mà cô không hiểu. Một ông trạc 80s đến bá vai và hôn cô trong khi một kẻ trong đám nói bằng tiếng Anh để ghẹo rằng ông ấy là “chồng tương lai” của cô! Trong lần thứ ba thi bán kết, cô bị gài bẫy chụp ảnh chung với cô gái giả ngồi xe lăn. Susan tưởng người đàn bà lại xin phép là mẹ cô bé nên đồng ý; hóa ra là dàn cảnh để có đề tài viết tin xấu. Khi biết sự kiện, Lorraine đã gọi cảnh sát. Tuy nhiên sở police nó họ bó tay trừ phi Susan bị xâm phạm thể chất.

Tình trạng căng thẳng đến mức Susan có ý định bỏ cuộc khiến Lorraine phải bố trí cô trú ẩn tại nhà bà dì của Benny, partner của bà ta ở ngoại ô London để né tránh. Cả nước Anh nay ai cũng biết cô nên có lần đi bộ tìm mua báo gần nhà thờ cổ Our Lady of Dolour, cô được cha sở Dermot nhận diện và mời vào cùng hát thánh ca; mặc dù chưa tới giờ mở cửa. Nhờ hát thánh ca, cô hết bị stress. Trên đường về nhà trọ cùng Lorraine, tài xế taxi bị paparazzi chận đuổi khiến anh ta phải vượt cả đèn đỏ để thoát. Lorraine gọi khẩn cho BTC báo động về nguy cơ tai nạn kiểu Princess Diana có thể xảy ra. Tuy nhiên như đã nói trên, police bó tay!

Susan chuẩn bị hát “I Dreamed A Dream” cho cử tọa khoảng 20 triệu khán giả trong dịp thi bán kết lần thứ ba mấy hôm nữa; thế mà cả đêm trước cô không chợp mắt được. Sáng ra cô thấy ngoài cửa đầy những hoa; ít nhất 100 bó và cả cards chúc sức khỏe và những gói quà nữa. Phờ phạc vì thiếu ngủ, cô gọi Frank Quinn để được động viên. Sau lời cầu nguyện chung, Frank nói: “Susan ạ, khi lên sân khấu nên nhớ bên phải cô là Đức Maria, bên trái là mẹ ruột; cô đứng giữa thì còn sợ gì nào?!”. Susan tâm sự dù giám khảo Piers Morgan ủng hộ mình; dù gia đình bênh vực mình đến cùng nhưng khi chợt nghe một thiểu số “boo” mình để chê bai, cô cảm thấy như bị đấm và lảo đảo; thậm chí không còn nghe thấy tiếng vỗ tay tán thưởng nữa! Susan có lần chợt nghĩ đến tình huống rớt kỳ thi này thì sẽ mất cơ hội hát cho Nữ Hoàng, cơ hội lãnh hàng trăm ngàn bảng Anh và nợ nần do mua sắm kiểu “bóc ngắn cắn dài”.

Chưa hết ưu tư này, cô lại phải trải qua ưu phiền khác: Một y tá đến “mời” cô đi clinic làm thủ tục “Priory” mà ngay cả cô cháu Pamela cũng biết “mọi stars đều phải đến đó” để được chẩn khám tâm thần. Thế mà đã là “star”, Susan đã không biết lại còn đuổi y tá! Sau khi có kết quả “ổn định”, cô được rời Priory bằng một xe có cận vệ ngồi cạnh. Xe bất ngờ rẽ vào một garage dưới hầm để đổi sang một xe khác rồi cùng tiếp tục hành trình. Thì ra đây là mánh khóe của BTC khiến đạo quân motorcycle paparazzi cứ ào ào theo đuôi chiếc xe rỗng không còn “star” bên trong nữa. Susan có cảm tưởng như mình đang đóng phim loại James Bond! Susan được đưa đến khu sang trọng từng là tu viện để dưỡng sức vài ngày. Một bác sĩ đẹp gái đến dẫn cô đi “mua sắm xả stress”; nhờ thế cô được hồi phục hoàn toàn trước khi lên sân khấu.

Cô và 6 thí sinh khác được mời ăn trưa với ĐHY Keith Patrick tại tòa GM St Bennet ở Edinburgh. Cơ sở St Bennet được GHCG Scotland mua hồi 1878. Vị Hồng Y chờ họ dưới chân tượng St Andrew, quan thầy của xứ Scotland. Susan được mời ngồi ngay chiếc ghế từng được đóng dành riêng cho ĐGH Jean Paul II dịp ngài tông du Scotland mà cô từng đích thân chứng kiến. Trong bữa ăn, vị HY kể chuyện đi đến đâu; khi biết ngài đến từ Scotland, dân chúng đều hỏi thăm ngài “ngài có biết Susan Boyle không? Bây giờ cô ấy ra sao?”. Tổng Thống Ireland Mary McAleese cũng kể cho ngài rằng cả gia đình bà mấy thế hệ đã quây quần bên TV xem Susan hát tại buổi thi chung kết “Britain’s Got Talent”. Bà biết Ireland là quê ngoại của Susan. Tại phòng khách uống cà phê, cô thấy vị HY trưng bày toàn ảnh chụp các mấu chốt cuộc đời tu hành của ngài: Ảnh chụp lễ phong chức Hồng Y cho ngài ở Vatican do ĐGH Jean Paul II chủ tế, ảnh cuộc bầu cử ĐGH Benedict XVI tại Sistine Chapel ở Rome mà ngài là một cử tri ..vv.. Khi trở lại nhà nguyện có tượng Đức Mẹ, mọi người đều quỳ gối cầu nguyện trong lúc Susan đứng hát bản “Ave Maria” của Franz Schubert với giọng trong sáng chốn thiên cung giữa mùa thu 2009.

Studio của Steve Mac nổi tiếng chuyên nghiệp ở SW London đã dành 6 tuần để thâu 2 CD cho Susan; trong đó có cả thánh ca và nhạc đời như: How Great Thou Art, Amazing Grave, Who I Was Born To Be, You’ll Be, Up To The Mountain, Daydream Believer, Wild Horses và Proud (Steve đồng tác giả). Tại London, cô được cung cấp một “chị nuôi” tên Julia và một cận vệ tên Ciaran. Cô đi đâu cũng có họ đi cùng; bám sát cứ như thể tù nhân bị dẫn giải vậy! Hơn thế nữa, cô không chỉ có đồ gia dụng căn bản mà còn trang phục sang đẹp, bữa ăn uống ngon đắt tiền, tạm trú hotel 5 sao, du hành First Class, ..vv.. Lại còn đoạt 2 giải cùng năm 2009: “Great Scot Award” và “Glenfiddich Spirit of Scotland Award”. Nhưng cô vẫn luôn nhớ lời cha mẹ dạy “Những món quà quý giá nhất không có trong đời này”!

Lần đầu tham gia hát cho giải chung kết “America Got Talent” ở Los Angeles, CA khiến cô phải đáp British Airways suốt 9 giờ cùng cận vệ. Đến nơi có khỏang 2000 fans đón tiếp. Họ thuộc lứa tuổi chững chạc hơn fans của The Beatles trước kia. Bịn rịn lâu lắm cô mới lên được xe chở đến Bel-Air Hotel. Theo sau là xe police hộ tống khiến cô có cảm tưởng mình là quốc khách thay vì ca sĩ. Danh sách khách trọ ở đây có cả Grace Kelly và Marilyn Monroe. Khi đi thăm Disneyland, cô mới thấy tuổi thơ hồn nhiên đã mất vì nay cô phải dè dặt, cẩn trọng từng cử chỉ vì “nhất cử nhất động” đều có thể bị bêu lên mặt báo. Trang phục sân khấu của cô do nhà thiết kế Suzanne Neville đảm trách; được thử trước ở London mấy hôm trước để manager Andy Stephens đem theo. Khi thử áo, cô mới biết “sao mình phì nộn thế”! Chiếc áo may khít đến độ khiến cô khó thở.

Trong chuyến đi Mỹ thứ nhì này, cô đem theo cô cháu Joanne, con chị Bridie để làm phụ tá riêng. Vất vả lắm cô mới buộc nó không được gọi “Auntie Susan” theo thói quen để job được “professional” hơn. Hai dì cháu tạm trú tại Penensula Hotel và ghé thăm “Dancing With The Stars”, phiên bản Mỹ của “Strictly Come Dancing” ở UK với giám khảo chính Len Goodman dân Anh; cũng là fan của cô. Susan hát “I Dreamed A Dream” cho cặp vũ công thí sinh; tránh nhìn họ để họ bớt phân tâm. Chuyến đi này còn khiến cô bất ngờ hơn nữa khi Donny Osmand, thần tượng của cô mấy thập niên trước (được cô treo ảnh trên tường nhà) đến hotel thăm, tặng hoa; lại còn hôn má nữa khiến cô phải sờ má xem nụ hôn là thật hay mơ!?

Tháng 11 thật bận rộn với thời biểu hát ở London, Paris, New York. Tại NY, cô hát 3 bài cho Today Show tổ chức ngoài trời trong Rockefeller Plaza. Cô tránh nhìn lên các đỉnh nhà chọc trời vì có cảm tưởng mình đứng dưới đáy vực. Tại NY, cô lại bị mất ngủ cả đêm khiến cháu Joanne phải gọi Andy, người manager đã khéo léo cho biết “nhiều fan phụ nữ từ khắp nước Mỹ đến từ 4:30AM để ủng hộ cô”! Nhờ thế, cô liền nhớ lời mẹ từng răn đe “trẻ con vừa chứ không thôi mẹ phát vào đít cho bây giờ”! Và rồi trước đám đông cổ vũ và tiếng nhạc dạo, cô lại tỉnh táo phục hồi và hát như mình “was born to sing”! Họ còn tặng món quà thêu công phu có chữ “Susan, We Love You” và cả bản sao thu gọn cho con mèo Pebbles nữa.

Susan hát khắp châu Âu: Pháp, Đức, Ý, Denmark, Spain, Holland; đi đến đâu cũng có Joanne và Andy tháp tùng. Có nơi còn có cả cận vệ, kỹ thuật viên, nhà sản xuất, quản lý Sony khu vực. Riêng trong phòng trang phục chỉ có Joanne và Michelle, chuyên gia thẩm mỹ. Susan kỵ móng tay giả; gọi châm biếm đó là “Britain’s Got Talons”. Cô nhận xét sự nổi tiếng là cái “passport” để chào hỏi thân mật các danh nhân chưa từng gặp mặt và được đến gần. Tuy nhiên sự nổi tiếng cũng lấy đi mất cái tự do của một du khách; khiến có lúc cô ước mình có phép phù thủy tàng hình như “Harry Potter”. Trong một chuyến đi Paris, cô ghé thăm cơ sở điều hành dòng Chị Em Bác Ái St Vincent de Paul trên đường Rue de Bac. Sơ bề trên Loreto gốc Irland cho biết dòng có từ 1633 do vị thánh cùng góa phụ St Louise de Marillac thành lập.

Vào thời điểm bán được 9 triệu dĩa CD và xuất bản quyển hồi ký 2010 này, cô dâng hiến cả hai cho bà mẹ yêu quý quá cố của mình. Tết năm ấy, lần thứ nhì cô được nhận card và mời dự tiệc tại tòa GM của ĐHY Keith P. O’Brien ở Edinburgh. Cô nhận ra trong số các vị khách có cựu BTNG Jim Murphy và vị Tổng Chưởng Lý Scotland, vị giáo chủ Scotland và Sơ Patricia Fallon, người vừa mừng chu niên 70 năm phục vụ dòng Chị Em Bác Ái. Liếc nhìn trên kệ ảnh, cô thấy CD album có ảnh mình cười mím chi ngoài bìa.

Andy đề nghị nên mừng birthday của Susan ở Tokyo, nơi có dàn nhạc 80 nhạc công và cử tọa 9000 khán giả ở Bukokan. Cô bàn với Yvie Burnett lập kế hoạch mua sắm để chuẩn bị. Thế nhưng thay vì mua sắm hành trang, cô đã phải mua chiếc vest màu đen để dự tang lễ bà Molly, mẹ của Yvie ở Aberdeenshire. Tang lễ cử hành tại nhà thờ đá của làng Methlick. Di ảnh bà Molly tươi cười đặt trong tang lễ còn có bài thơ “I’m Fine Thank You” bà sáng tác  đặt ở phía sau ảnh. Sau bản thánh ca “The Lord’s My Shepherd” cả nhà thờ cùng hát là bài giảng của vị chủ tế. Đến lượt Susan, cô hát “Amazing Grace” theo yêu cầu của Yvie.

Yvie vẫn giữ hẹn đi Nhật; phần vì job, phần để có dịp nguôi ngoai nỗi đau lớn mất mát. 36 giờ sau, họ gặp nhau tại Heathrow Airport. Cùng đi với Andi còn có 7 phụ nữ; kể cả Joanne. Họ đến Narito Airport lúc 9AM hôm sau rồi đại diện Sony chở họ đi Tokyo. Họ tạm trú trên tầng thứ 45 của hotel Ritz-Carlton cao nhất thủ đô. Susan lại mất ngủ vì chưa bao giờ hát với dàn nhạc sống đông đảo nổi tiếng như thế. Trong các bài cô hát với Yomiuri Orchestra ở Metropolitan Art Space có bài “Wing To Fly” rất phổ biến ở Nhật. Buổi trình diễn được đưa lên YouTube có hàng trăm triệu khán giả xem; đặc biệt có cả khán giả đến từ Mỹ, Canada và Úc. Họ mua bánh, hoa, nến đem đến hotel và hát Happy Birthday mừng sinh nhật cô khiến cô cảm động chảy nước mắt. Ngoài ra cô còn được nhận check của hoàng gia đủ mua chiếc piano màu trắng như ước vọng. Simon Cowell còn tặng cô chiếc vòng vàng trắng gắn hột soàn mà cô đeo liền; thề rằng ai muốn trộm nó thì phải chặt đứt tay cô mới lấy được!

Bukokan xây năm 1964 dành cho Tokyo Olympic và hòa tấu nhạc, nơi Beatles, Bob Dilan, Céline Dion … từng đến trình diễn. Chương trình đầu là phần của 3 sopranos Nhật trình diễn các tuồng Carmen, Aida và Miss Saigon. Đến lượt cô hát cho cử tọa 9000 khán giả, sau các bài trước, cô phải vào hội trường nhấp ngụm nước rồi ra hát tiếp bản chót “Amazing Grave”. Khán giả chỉ biết vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt chứ đâu biết được Susan vừa ngoái nhìn Yvie; ngầm ra hiệu bài hát hôm nay dành cho ai mới mấy hôm trước trong tang lễ! Còn Susan cũng không biết được ngay sau đó, MC người Nhật nói một tràng tiếng Nhật rồi dàn nhạc trổ bài “Happy Birthday”. Cả hội trường hát theo; trong đó câu “happy birthday dear Susan”!

Hồi tháng 5/2010, Susan trở lại St Bennet để nhận món quà cao quý về tinh thần: Cỗ tràng hạt đặc biệt gồm hạt của 50 thành viên mà bà Maria Dorrian vận động. Bà đến từ St Padre Pio ở Scotland (thuộc dòng San Giovanni Rotondo, Puglie ở Ý) có sáng kiến quyên góp hạt từ các thành viên hội Mân Côi, các bạn ở Scotland, Holland, California và Las Vegas. Đặc biệt có hạt lấy từ cỗ tràng hạt của ĐHY O’Brien mà ngài dùng ở Vatican trong một buổi triều yết ĐGH Benedict XVI. Các hạt này được bà Collete ở Nevada kết lại. Ngoài ra còn có tập bìa da gồm các lời cầu chúc của từng cá nhân tặng hạt.

Susan nhớ lại dù đã hát nhiều bài hát “đạo” nhưng lần đầu hát “Ave Maria” của Franz Schubert trên gác hát nhà thờ giáo xứ Lộ Đức; trong một thánh lễ tạ ơn của bạn thân Francis Whelan, cô rung cảm về sức mạnh của bản thánh ca vốn tạo khoảng cách gần gũi và trực diện với thần linh hơn bao giờ hết; nhất là trong dịp Christmas hàng năm. Khi hát bản thánh ca này, Susan chợt nhớ lời dạy của St Augustino: “Hát thánh ca là cầu nguyện gấp bội phần”! Đề cập đến sự nghiệp ca hát, Susan nói từng học kềm chế để nhận chân giá trị của chân lý như “sắc đẹp ẩn dưới làn da”, “đừng đánh giá một quyển sách qua cái bìa của nó”, “những món quà quý giá nhất không có trong đời này”..vv.. Susan khẳng định rằng qua kinh nghiệm, với tình thương của Chúa, một “cô gái không chồng ở lứa tuổi trên 40s, răng giả, tóc bù xù, lông mày không cạo nhổ, lưng to như divan” mà còn thành công được thì thiên hạ ai cũng có thể thành công hết.

HÀ BẮC

(tóm lược hồi ký “The Woman I Was Born To Be – My Story” của Susan Boyle)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here