Triết lý sống xưa và nay?

0

Triết lý sống của người Á Đông nói chung Việt Nam nói riêng phần lớn bị ảnh hưởng của Ấn độ và Trung Quốc. Người VN bị ảnh hưởng nhiều nhất sau thời kỳ một ngàn năm đô hộ của người Tàu phương bắc. Nhiều người cho rằng hệ thống triết lý cuộc sống của người Việt bị ảnh hưởng sâu sắc và phức tạp. Nó được kết hợp triết lý về trí tuệ của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo và các tư tưởng truyền thống khác qua hàng ngàn năm, và từ đó đã hình thành một quy tắc ứng xử và quan điểm sống cho đến ngày hôm nay với một hướng nhìn rõ nét. Sau đây là một vài điểm cốt lõi phản ánh những quan niệm triết học trong cuộc sống. Trước hết chúng tôi nói qua về những học thuyết:

  1. Học thuyết Trung dung: Chính yếu nói về sự “công bằng, và sự khác biệt trong sự hòa hợp.Thuyết này có nguồn từ Nho giáo trong quyển “Học thuyết trung dung” Thuyết này chủ trương tìm kiếm sự cân bằng trong các mâu thuẫn khác nhau, tránh cực đoan và theo đuổi phương cách là mọi việc nên “vừa phải”. Ví dụ như không nói hoặc làm việc quá mức, không làm mất lòng người khác, phải chừa (khoảng trống/một lối thoát) trong các cuộc xung đột. Nên xem trọng sự hòa hợp giữa các cá nhân. Về xã hội sự hòa hợp phải mang đến sự thịnh vượng, hòa thuận với nhau và tạo sự đoàn kết.v.v. Nhất là tránh sự đối đầu trưc diện. Bởi thế có câu mà nhiều người thường nói: “Kiên nhẫn ôn hòa thì biển lặng, lùi một bước thì trời sẽ rộng mở.” Cho nên mọi việc cần phải đo lường, cảnh giác, phán đoán mọi tình huống và cân nhắc. Nhất là phải biết lịch sự trong mọi giao tiếp.
  2. Trong “Binh pháp Tôn Tử” và “Quỷ Cổ Tử” hay còn gọi là “Quỷ Cốc Tử” hay một tên khác “Mưu lược toàn thư” hay “Trí tuệ thư” là một kiệt tác mưu lược và thuật đối nhân xử thế. Hai sách này đều nhấn mạnh đến chiến lược, nhượng bộ và thuận theo tự nhiên. Khi giao tiếp bất kỳ trường hợp nào chúng ta phải biết sự linh hoạt và khả năng thích ứng, để nắm bắt thời cơ. Ví dụ như: Không nói năng hời hợt, không phô trương, phải giữ im lặng nhiều hơn, phải biết khiêm tốn, nhẫn nại, kiềm chế và phải biết tu dưỡng bản thân mọi lúc. Càng phô trương, tự cao tự đại càng bị giết chết sớm nhất hay bị mọi người xa lánh thù ghét.
  3. Phải cố gắng tuân theo tự nhiên: Nếu biết thuận theo tự nhiên, thì sẽ được thanh tịnh và không bị nhiều rắc rối phiền phức và giảm bớt những đấu tranh giả tạo nhất là chúng ta phải biết buông bỏ. Đó cũng là chủ trương của Lão Tử và Trang Tử.
  4. Nếu chúng ta đứng trên lĩnh vực của Phật giáo về nghiệp chướng và luân hồi thì con người cần khuyến khích tích đức, làm việc thiện, tránh làm điều ác. Có câu nhân gian thường nói: “Gieo nhân nào gặt quả nấy.” Hay Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo.v.v.

Những điều chúng tôi vừa nói trên chỉ là một vài điều rất khiêm tốn trong các triết lý cỗ xưa của Trung quốc. Ở đây chúng tôi muốn nêu lên những điều không còn thích ứng cho thời đại tiến hóa ngày nay, một số phương cách của những triết lý đó không còn thích ứng để áp dụng cho thế giới hiện đại.

**– Triết lý sống của: Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo áp dụng trong cuộc sống đời thường tôi tạm cho là ba thái độ: Sống ở thế gian (có nghĩa là sống trong cõi đời nơi mà con người tồn tại và tương tác), Xuất thế gian (là khái niệm của PG là sống vượt qua thế tục)Siêu thế gian (Một trạng thái siêu thế vượt ngoài thời gian và không gian; không thuộc về thế gian vô thường, khổ não và vô ngã). Ngày xưa người Trung Quốc thường linh hoạt chuyển đổi và vận dụng chúng một cách toàn diện trong các tình huống khác nhau. Ví dụ như Nho giáo nhấn mạnh trách nhiệm, lễ nghĩa, quan hệ giữa người với người, lòng trung thành và hiếu thảo, đồng thời chủ trương đạt được sự hòa hợp giữa cá nhân và xã hội thông qua tu dưỡng bản thân, quản lý gia đình và hòa bình thế giới. Tuy nhiên, những điều nêu trên có nhiều điều không còn thích ứng để áp dụng cho ngày hôm nay. Tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo là nền tảng của văn hóa bắt nguồn từ bối cảnh xã hội hàng ngàn ngàn năm trước. Một số nội dung hoặc khái niệm ngày nay dường như không còn phù hợp hoàn toàn với xã hội hiện đại, thậm chí có thể tạo ra nhiều vấn đề phức tạp khác. Sau đây là một vài ví dụ điển hình:

  • Nho giáo: Nhấn mạnh vào trật tự thứ bậc và sự phục tùng tập thể. Nhưng có nhiều điểm không còn phù hợp với thời hiện đại như: Nho giáo nhấn mạnh tư tưởng thứ bậc và gia trưởng như “vua-tôi, cha-mẹ, con-cháu”, phải lấy sự trung thành với vua và hiếu thảo với cha làm cốt lõi, gọi đó là “những nguyên tắc đạo đức”. Chính điều này lại củng cố chủ nghĩa chuyên quyền và bất bình đẳng giữa cấp trên và cấp dưới, nó không còn phù hợp với xã hội ngày nay, nơi đề cao dân chủ, bình đẳng và quyền cá nhân.
  • Kìm hãm tự do cá nhân và tư duy độc lập: Nho giáo coi trọng “lễ nghi” và “đạo đức tập thể”, điều này dễ dàng kìm hãm sự phát triển nhân cách và khả năng sáng tạo của cá nhân. Trong xã hội hiện đại, sự độc lập và đa dạng cá nhân được đề cao. Ví dụ khái niệm “Tam tòng, tứ đức”.v.v. Đối với Nho giáo truyền thống này sẽ hạn chế nghiêm ngặt về vai trò của phụ nữ, nhấn mạnh rằng phụ nữ phải vâng lời cha, anh, chồng và con trai lớn.v.v. Điều này mâu thuẫn với các giá trị hiện đại về bình đẳng giới.
  • Đạo giáo: Hiểu sai về chủ nghĩa thoát ly thụ động và sự thụ động tự nhiên. Những điểm này có thể không phù hợp với thời đại hiện đại: Ví dụ diễn giải tiêu cực về “sự thống trị bằng thụ động”: Trong một số môi trường hiện đại, “thụ động” thường bị hiểu lầm là không đấu tranh và cam chịu. Điều này có thể trở thành cái cớ để trốn tránh trách nhiệm trong một xã hội, không đề cao hiệu quả, cạnh tranh và giải quyết vấn đề. Đạo giáo chủ trương “trở về với sự giản dị và tự nhiên” luôn nhấn mạnh sự thuận theo tự nhiên. Khuynh hướng này đối nghịch hệ thống và văn minh công nghệ của thời đại ngày nay. Nếu quan niệm thụ động này đi quá xa, nó có thể dẫn đến sự chối bỏ khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại, điều này không phù hợp với định hướng “quản trị thể chế” và sự văn minh, tiến bộ của nhân loại đổi mới hiện đại. Nhất là khi quá chú trọng vào “tự hoàn thiện” có thể khiến con người thờ ơ với trách nhiệm công cộng và sự tham gia xã hội
  • Phật giáo: Xu hướng thoát ly tiêu cực và khuynh hướng về định mệnh là những điểm có thể không phù hợp với thời điểm hiện đại: Thứ nhất khuynh hướng bi quan về “tứ đại giai không” và “khổ, tích, diệt, đạo” hay gọi là Tứ diệu đế: Phật giáo cho rằng bản chất của cuộc sống là “khổ” và khuyến khích việc thực hành “rời bỏ” và tất cả là “không”. Thực tế trong xã hội hiện đại, có nhiều vấn đề đòi hỏi sự hành động tích cực và thái độ xây dựng, thay vì sự trốn tránh thụ động. Ví dụ “Nghiệp” và thuyết “định mệnh” đa số Phật tử luôn có ý nghĩ và quy tội những bất hạnh trong cuộc đời là do “nghiệp của kiếp trước”, chính điều này dẫn đến việc con người từ bỏ mọi động lực để thay đổi cuộc sống thực tại hoặc phớt lờ các vấn đề của xã hội (như nghèo đói và bất công…). Chúng tôi không chống đối việc xuất gia, từ bỏ thế gian, và tránh xa đời sống gia đình: Chúng tôi hiểu xuất gia là tìm đến sự thanh tịnh. Mặc dù điều này cần thiết cho người tu hành, nhưng nếu áp dụng rộng rãi cho toàn xã hội, nó sẽ tác động tiêu cực đến quan niệm gia đình và trách nhiệm xã hội hay nó có thể tạo Quốc gia đó trở thành nghèo kém và thụt hậu.v.v.

Tóm lại. Chúng tôi chỉ “Suy ngẫm về triết học Trung Quốc từ góc nhìn hiện đại. Chúng tôi không thể đào sâu hơn trong vấn đề này. Và không dám nói nhiều đến những trường phái hay tư tưởng trên là lỗi thời. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng: Những “vấn đề” này không có nghĩa là ba trường phái tư tưởng (Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo) đã lỗi thời. Không. Nó vẫn còn một giá trị to lớn. Vấn đề thực sự chúng tôi muốn nói là: Sự hiểu biết và áp dụng cứng nhắc, giáo điều những triết lý này, chứ không phải là những khiếm khuyết của chính chúng. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta không phải từ bỏ truyền thống, mà là kế thừa và đối thoại một cách trung thực với hiện đại tu chính để trở thành hoàn hảo.

Sau khi bước vào thế kỷ 21, khoa học công nghệ đã có những bước tiến vượt bậc, cấu trúc xã hội đã thay đổi mạnh mẽ, và ý thức cá nhân đã thức tỉnh. Chúng ta phải tự hỏi: Liệu những tư tưởng triết học đã bén rễ từ hàng ngàn năm trước có còn phù hợp với thời đại ngày nay không? Ví dụ: Thời xưa, việc nhấn mạnh “Vua là con trời” là thủ lĩnh của các quan” là cha của dân tộc đó họ có quyền duy trì sự ổn định xã hội và ban phát mọi mặt, sống chết nằm trong tay vua. Hay “tam tòng tứ đức”(Tòng phu, tòng phụ, tòng tử và Công, Ngôn, Dung, Hạnh” hay đàn ông lo việc bên ngoài, đàn bà bên trong bếp núc”.v.v. Với thời đại hôm nay có còn thích ứng không? Mặc dù hiện nay có một số dân tộc hay một vài quốc gia vẫn còn áp dụng những luật lệ phong kiến và theo phong tục tập quán của họ. điều này mâu thuẫn nghiêm trọng với quan niệm hiện đại về bình đẳng giới hiện nay.

Chúng tôi xin tạm chấm dứt bài viết với vài ý nghĩ ngắn gọn để chia sẻ cùng mọi người, vì có hàng trăm sách vở, hàng ngàn tư tưởng triết lý, hay nhiều ý tưởng khác nhau trên thế giới chúng tôi không thể trình bày đủ trên một trang giấy. Đây chỉ là sự góp ý để chúng ta cùng suy nghĩ. Theo ý kiến chúng tôi thì chúng ta phải biết “Tiến thoái vừa phải, vừa cương vừa nhu; nhường chỗ cho người khác, và chừng mực trong ứng xử.” Hay “Con người nên tử tế, chính trực, lịch sự, khôn ngoan và đáng tin cậy”. Nhất là trong đời sống văn minh công nghệ hiện đại, con người phải có sự thay đổi để thích ứng với thời đại mới, điều này sẽ tạo cho cuộc sống tốt đẹp hơn.

Linh Vũ

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here