RÌU ĐỒNG ĐÔNG SƠN.

0

RÌU ĐỒNG ĐÔNG SƠN: (PHẦN 3 VÀ HẾT).

Nguyn Xuân Quang.

RÌU VÀ KHÍ BIỂU KHÁC TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN.

Rìu Đông Sơn, rìu biểu của vũ trụ giáo, của đại tộc mặt trời thái dương ứng với đại tộc Việt có văn hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng của Người Việt Mặt Trời Thái Dương theo vũ trụ giáo hiển nhiên có mặt trên trống đồng Đông Sơn, trống biểu tượng vũ trụ giáo và của Người Mặt Trời Thái Dương, của đại tộc Việt.

Rìu biểu đại tộc Đông Sơn ứng với họ Hồng Lạc. Loại này gồm hai ngành Chim Rìu dương thái dương ứng với Hồng Việt gồm nhánh dương Hồng, nhánh âm hoàng và ngành

Rắn Nước dương thái âm ứng với Lạc Việt.

  1. Khí Biểu Ngành Lửa Dương Thái Dương Càn.

Loại này thấy ở những tộc người chim rìu lửa mặt trời thái dương trên mặt trống như trống Ngọc Lũ I.

Qua chương hình người trên trống Ngọc Lũ I ta đã biết hai nhóm 7 và nhóm 6 người nhẩy múa tay cầm khí biểu (hay nhạc cục).

+ Khí biểu hay rìu mỏ cắt.

Nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương.

Người thứ nhất dẫn đầu là đại biểu đại tộc Càn của nhánh 7 người nhẩy múa.

Trừ những người đánh chuông, đánh khánh và thổi khèn còn những người còn lại tay phải cầm phách/khí giới mũi mác (có thể là rìu mỏ cắt kép

như đã biết hay phi tiêu Ninja Nhật Bản). Vật này có một khuôn mặt biểu tượng khí biểu tượng lửa dương thái dương Càn ngành Càn.

Một cặp phách của người Triều Châu (Wikipedia).

Lưu ý người Triều Châu là một tộc Bách Việt.

Vật này có một khuôn mặt biểu tượng khí biểu tượng lửa dương thái dương Càn ngành Càn.

Lưu Ý

Ở nhóm dương 7 người nhẩy múa dương thái dương Càn khí biểu này mang dương tính Càn, thẳng và cường điệu hơn ở nhóm âm nhóm 6 người nhẩy múa.

+ Khí Biểu Gậy, Côn, Đoản Đao.

Những người này tay trái cầm dùi phách hay cây gậy, côn, đoản đao thẳng dương.

Dĩ nhiên hai loại này cũng thấy trong khí biểu tượng Đông Sơn.

-Khí biểu tượng Ngành Lửa Dương Thái Âm Chấn.

Nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm.

Người thứ nhất dẫn đầu là đại biểu đại tộc Chấn của nhánh 6 người nhẩy múa.

Người số 1 dẫn đầu là đại biểu Chấn đại biểu của nhóm 6 người nhẩy múa ở bán viên âm.

Mấu chốt nhận diện là tay trái âm cầm đòng Tốn-Chấn. Tay phải cầm phách/khí giới mũi mác, ở đây có nét cong, nhỏ và hẹp mang âm tính (trong khi ở nhóm 7 người nhẩy múa ở bán viên dương phách nhọn đỉnh). Âm thái dương là Tốn OII.

+ Khí Biểu Đòng Dương Thái Âm Chấn.

Tay trái người dẫn đầu nhóm 6 người nhẩy múa cầm đòng. Tổng quát đòng có khuôn mặt biểu tượng của dòng Khôn âm, nước.

Lưu Ý.

Xin nhắc lại trong vũ trụ giáo khí giới là khí biểu thờ thiêng liêng (sacred ceremonial weapons). Mỗi đại tộc có một loại riêng: giáo mác, gươm đao, dao, rùi đầu mác nhọn là khí biểu của tộc Lửa dương thái dương Càn; rìu, nhất là rìu lưỡi ngang sừng hươu là khí biểu của đại tộc Đất dương thiếu dương Li; đòng là khí biểu của đại tộc Nước dương thái âm Chấn và chùy tròn đầu là khí biểu của đại tộc Gió dương thiếu dương.

Trong mỗi đại tộc lại chia ra ít nhất bốn tộc ứng với tứ tượng nên giáo mác đại tộc Càn, đại tộc đòng Chấn, đại tộc chùy Đoài, đại Rìu Li lại chia ra nhiều loại như Rìu Càn tộc dương thái dương Càn, rìu Li tộc dương thiếu dương Li, rìu Chấn tộc dương thái âm Chấn và rìu Đoài tộc dương thiếu âm Đoài. Vân vân…

Người dẫn đầu nhánh này cầm đòng Chấn là đại tộc Chấn.

Đòng thái dương Chấn có đầu đòng chữ V lớn có một nghĩa nước thái dương và khung không gian chữ nhật có các sọc nước với từ chấm-vòng tròn thái dương của người dẫn đầu nhóm 6 người nhẩy múa. Đây là đòng Chấn mặt trời nước.

Đòng Chấn Tốn mặt trời nước thái dương của chi Chấn-Đoài này khác với đòng thiếu âm gió Đoài của người trên thuyền nhánh Đoài:

Đòng gió của một người gác linh hồn trên thuyền phán xét linh hồn trên trống Ngọc Lũ I.

Đòng thiếu âm Đoài gió có mũi đòng và đuôi đòng hình thoi.

Hình thoi có một nghĩa biểu tượng gió (Chữ Nòng Nọc Vòng Tròn-Que và Biểu Tượng Hình Học). Trong hình thoi có dấu nọc que nhỏ có nghĩa là thái dương âm (trong khi dấu nọc mũi mác ^ có nghĩa là thái dương dương). Thân đòng này có khung phướn gió tạt.

Người dẫn đầu nhóm 6 người nhẩy múa là người đại diện đại tộc Tốn-Chấn nhánh 6 người nhẩy múa. Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt là đại tộc dòng Âu Cơ-Lạc Long Quân.

  1. Khí Biểu Ngành Nước Dương Thái Âm Chấn.

Loại khí biểu này thường thấy ở tộc người nước ở vùng nước tang trống và thân trống.

Như đã biết, trên thân trống Bản Thôm có năm loại khí biểu:

Thân trống Bản Thôm chia ra nhiều ô. Có ô chỉ có một người, có ô có 3 người.

-Ô một người.

         

Một người đứng riêng tại một ô trên thân trống Bản Thôm.

+ Rìu chim cắt nước lửa âm thái dương Hoàng Việt.

Tay phải dương cầm rìu đầu chim cắt lửa nước chỉ địa biểu tượng tộc lửa âm thái dương Càn ngành nòng âm, nước. Lưu ý rìu để chúc đầu hướng địa mang âm tính cho biết của tộc phía nòng âm, nước vì thế đầu chim không có mấu sừng dương.

Rìu Hoàng Việt  giống hình rìu Hồng Việt Đông Sơn chỉ khác là ở đây đầu chim cắt nước mang âm tính không có mấu sừng. Đòng nước khí biểu của phía nòng âm nước là một thứ lao âm.

Lưu Ý

Ta thấy người này tay phải cầm rìu đầu chim cắt âm thái dương xác thực khí biểu tượng hình mũi mác phách hay khí giới cầm ở tay phải của hai nhóm người nhẩy múa trên mặt trống mang tính dương thái dương.

+ Đòng cá sấu, thuồng luồng, dương thái âm Lạc Việt, Dao Việt.

Mũi đòng chữ V lớn có một nghĩa nước thái dương. Đuôi đòng hình vật đựng chữ U như cái bát trong có mặt trời âm đĩa tròn hai nòng vòng tròn thái âm, nước. Đòng hình cốc có chân chalice biểu tượng cho âm, nước giống như loại quyền trượng hoa súng của các nữ thần Ai Cập.

Nữ thần maat tay phải cầm quyền trượng đầu hình hoa súng, loài hoa mọc dưới nước.

Giữa đòng có kết tụ hình ô dù có sọc nước mưa. Đòng có mũi chỉ địa mang âm tính, dương thái âm cá sấu, thuồng luồng, Sấu Việt, Sấu Lạc, Dao Long, thú biểu của nòng, nước, âm, cực âm.

Đây là loại đòng chữ Y mặt trời nước dương thái âm, khí biểu của đại tộc nước dương thái âm Chấn.

Người đứng một mình này hai tay cầm khí biểu mang tính lửa, nước, nòng nọc (âm dương), càn khôn, vũ trụ, trời lủa thái dương nước dương thái âm, lưỡng cực, lưỡng nghi của dòng âm, nước. Đây có lẽ là người đại tộc trưởng.

-Ô có ba người.

+ Khí biểu hay rìu hình mũi mác, phi tiêu âm thái dương.

Ba người này tay phải cầm khí biểu hình mũi mác có thể là phi tiêu hay rìu (loại Ninja của Nhật Bản) giống hình cặp phách như đã nói ở trên. Nhưng ở đây có nét cong mang âm tính của phía nòng âm thái dương.

+ Rìu ngang sừng mang gạc Đất Dương Li.

Người bên trái cầm rìu ngang sừng hươu  biểu tượng tộc Đất dương Li.

-Đòng nước (lao nước) Chấn.

Người này tay trái âm cầm đòng nòng, nước chữ Y, giống đòng ở tay trái của người đứng riêng trong một ô đã nói ở trên. Tuy nhiên mũi đòng ngắn hơn và phần vật đựng đuôi dòng nhỏ hơn, không có mặt trời đĩa tròn nên chỉ biểu tượng cho một thế, một cõi nước, âm ở tầng tứ tượng thay vì biểu tượng cho một cực, cực âm ở tầng lưỡng cực, lưỡng nghi như đòng mặt trời dương thái âm của người đứng một mình.

+ Chùy đầu chim nông gió Đoài.

Người bên phải cầm, gậy giống chùy hình đầu chim nông gió có bờm gió, có con mắt dương quay về phía trái âm biểu tượng gió Đoài IIO (thái dương II của âm O).

Như thế trên thân trống Bản Thôm có những người cầm khí biểu: rìu chim cắt lửa nước (Hoàng Việt) Càn âm, đòng nước Y dương thái âm Chấn cực âm tức Khôn ngành thái dương. Càn khôn, trời lửa đất nước sinh ra tam thế hay ba cõi: cõi trời chùy bổ nông Gió, cõi nước dòng cá sấu nước âm thái dương Chấn và rìu ngang mang gạc đất dương Li.

Những người này mang nghĩa biểu tượng vũ trụ tạo sinh hay là những người đại diện của họ người mặt trời theo vũ trụ giáo.

. Rìu Riêng Đại Tộc mặt trời Nước, Lạc Việt.

Ngoài ra các rìu biểu tượng toàn ngành như đã nói ở trên còn có loại rìu riêng đại tộc mặt trời nước ứng với Lạc Việt. Như đã biết người trên thuyền và trên thân trống thường cầm rìu đầu chim bồ cắt nước, Hoàng Việt hình chữ Y mang âm tính (theo thái âm nữ Y có một khuôn mặt biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ Yoni) và đầu chữ V mang âm tính (theo thái âm nữ V có một khuôn mặt biểu tượng cho âm hộ Vulva), theo duy dương có một nghĩa nước âm thái dương Chấn ứng với chim (hồng) Hoàng Lạc Việt.

Người thuyền trưởng cầm rìu đầu chim cắt mũ sừng hình chữ Y đầu chữ V ngành nòng âm nước.

Chữ V là do hai nòng OO thái âm, nước, dương hóa mà thành (O dương hóa cực đại thành nọc que) và hợp thành hình mũi mác thái dương đầu chỉ địa mang âm tính. Trong đầu rìu có những nọc chấm đặc dương. Đầu rìu chữ V diễn tả nước dương thái âm Chấn ngành âm. Đây là rìu Hoàng Việt.

Như đã biết tính nòng nọc (âm dương) của đầu rìu thay đổi tùy theo tính nòng nọc (âm dương) của tộc người.

Vì thế loại rìu này chỉ thấy trên thuyền và trên thân trống.

Kiểm chứng lại với các nền văn hóa phía nòng âm (ứng với Lạc Việt) khác ta thấy:

Như đã nói ở trên trước đây đã có tác giả người Anh đã so sánh rìu Lạc Việt trên thuyền và trên thân trống đồng Đông Sơn với rìu chiến của tộc Naga (Rắn, Rồng) và các tộc liên hệ với Nagaland ở Assam. Naga và liên tộc Ao Naga (Âu- Long) liên hệ với liên tộc Tây Âu-Lạc Việt.

So sánh rìu chữ Y Lạc Việt với các Rìu Chiến Dao vùng Assam của Các Tộc Sống Trên Đồi vùng Asasm và Nagaland (Classic Assam

Battle Ax, Daos of the Hill Tribes of Assam and Nagaland).

Ethnographic Arms & Armour Forum Naga Tribal Weapons (vikingsword.com).

Ta thấy rất rõ chiếc Dao Nagaland ở phía trái trên giống rìu đầu chim cắt nước Hoàng Việt dòng Lạc Việt.

Chiếc rìu chiến Nagaland giống rìu đầu chim cắt nước Hoàng Việt dòng Lạc Việt. Lưu ý người nhẩy múa trên thân trống Miếu Môn I cầm rìu đầu chim cắt có con mắt và mũ sừng rất rõ và cầm ở tay trái mang âm tính cho biết thuộc dòng âm nước Lạc Việt Lạc Long Quân.

-Rìu chiến cổ truyền Fuji.

Rìu chiến Fiji đảo Lou kiakavo.

Rìu Bẻ Cổ Fuji đã nói ở trên:

Rìu Bẻ Cổ Fuji.

-Rìu chữ Y Đa Đảo.

(nguồn: icollector.com)

RÌU VIỆT ĐÔNG SƠN THẤY Ở CÁC TỘC LIÊN HỆ VỚI TỘC VIỆT TRÊN THẾ GIỚI.

Hình bóng rìu Đông Sơn thấy trong nhiều nền văn hóa thế giới nhất là ở các tộc liên hệ với Bách Việt hay văn hóa Đông Sơn.

Để đối chiếu chỉ xin lấy một chiếc rìu đầu chim cắt lửa Việt Hồng Hoàng Đông Sơn tiêu biểu của đại tộc Việt, Người Việt Mặt Trời Thái Dương so sánh với các loại rìu Đông Sơn và rìu thông thường khác thấy ở các tộc của Bách Việt và các tộc liên hệ với văn hóa Đông Sơn.

Rìu này thấy:

-Trên trống đồng Đông Sơn như thấy ở trên thân trống Bản Thôm đã nói ở trên.

-Qua bộ phận sinh dục nam của người mặt trời ở bãi đá cổ Sapa như đã nói ở trên.

Người Việt mặt trời thái dương có nõ hình chiếc ríu móc cong chim Rìu, Việt, Cắt Lửa Hồng Hoàng ở bãi đá cổ Sapa.

-Qua rìu Điền Việt chim rìu Việt đã nói ở trên.

-Ao-Naga.

Như đã nói ở trên.

Còn các tộc ở xa ta hãy đi theo dấu chân của chiếc rìu này trên con đường mòn DNA (DNA trail) phát xuất từ Việt Đông Sơn ở Đông Nam Á theo hai ngả: một ngả đi xuống Nam Đảo, Đa Đảo và một ngả đi lên eo biển Bering.

Tóm tắt lại ta có bảng tóm tắt sau đây:

DẤU CHÂN RÌU CHIM VIỆT ĐÔNG SƠN TRÊN CÁC LỐI MÒN DNA THẾ GIỚI.

Dấu chân rìu chim Mỏ Rìu, chim Việt Hồng Hoàng Đông Sơn Bách Việt trên các lối mòn DNA khắp thế giới.

-Hàng trên: theo lối mòn DNA qua Eo Biển Bering:

1 và 2. Rìu Đông Sơn đầu chim mỏ rìu, chim Việt Hồng và Hoàng, 3. Rìu đầu chim mỏ rìu Điền Việt, 4. Rìu đầu chim mỏ rìu Sioux, Bắc Mỹ, 5. Rìu đầu chim mỏ rìu Tiền-Columbus Aztec, Trung Mỹ, 6, 7. Rìu toki đầu chim mỏ rìu Mapuche nhánh dương (rìu có con mắt dương và âm (rìu có con mắt âm) ngành âm thái dương Hoàng Việt, Nam Mỹ.

-Hàng dưới theo đường mòn DNA xuống hải đảo Thái Bình Dương:

a, b. Rìu Đông Sơn đầu chim mỏ rìu, chim Việt Hồng và Hoàng Nam Dương, Nam Đảo, c. Rìu đầu chim mỏ rìu Toki Maori, New Zealand, Đại Dương Châu, d, e. Rìu đầu chim mỏ rìu, chim Việt Hồng và Hoàng Hawai, Đa Đảo.

Lưu Ý

Rìu đầu chim mỏ rìu Mapuche có thể có một gốc đi từ Đông Sơn Bách Việt ở Đông Nam Á theo lối mòn DNA Bering xuống Nam Mỹ nhưng cũng có thể có một gốc theo lối mòn DNA hải đảo từ Đa Đảo Easter qua Nam Mỹ (bằng chứng thấy qua nhiều rìu Mapuche mang âm tính thuộc ngành nòng âm thái dương Hoàng Việt, Lạc Việt).

RÌU ĐỒNG ĐÔNG SƠN và VIỆT TỘC.

Như đã biết Việt có nghĩa là Vọt (roi vọt), vật nhọn, Hán Việt Việt là rìu. Người Việt là Người Rìu, vật nhọn có một khuôn mặt biểu tượng mặt trời. Người Việt là Người Mặt Trời Thái DươngNgười Việt có văn hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng dựa trên nguyên lý căn bản nòng nọc (âm dương) của vũ trụ tạo sinh, vũ trụ giáo có trống đồng nòng nọc (âm dương) Đông Sơn là trống biểu, có Hùng Vương Vua Mặt Trời.

Như thế hiển nhiên rìu Đông Sơn, rìu biểu tượng của vũ trụ giáo là rìu biểu của Người Việt Mặt Trời Thái Dương. Đây là lý do tại sao có rất nhiều rìu Đông Sơn trong lãnh thổ Việt Nam và các địa bàn cũ của Bách Việt cũng như rìu Đông Sơn thấy trên trống đồng Đông Sơn ở châu thổ Sông Hồng.

Xem thêm bài đọc thêm Việt Là Gì?

Tổng Kết về Rìu Đông Sơn.

Nhìn tổng thể theo nghĩa biểu tượng rìu Đông Sơn và trống đồng nòng nọc (âm dương) Đông Sơn có những ý nghĩa biểu tượng chính như nhau.

Rìu ngoài chức vụ dùng như một dụng cụ nhọn sắc lúc ban đầu về sau trở thành một vật biểu, một khí biểu biểu tượng mặt trời, một tộc người dòng mặt trời. Người Việt có một nghĩa là người Rìu và là người dòng giống Mặt Trời Thái Dương vì thế Rìu là vật biểu của tộc Rìu Việt Mặt Trời Thái Dương. Người Việt có văn hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng theo vũ trụ giáo. Rìu Đông Sơn nằm trong văn hóa trống đồng Đông Sơn theo mặt trời giáo của vũ trụ giáo. Do đó Rìu Đông Sơn cũng như trống đồng Đông Sơn là tộc biểu, quốc biểu, quốc huy, là khí biểu tượng của Bách Việt Mặt Trời Thái Dương theo vũ trụ giáo.

Rìu Việt Đông Sơn diễn đạt trọn vẹn vũ trụ thuyết, vũ trụ tạo sinh của vũ trụ giáo giống như trống đồng Đông Sơn.

Người Việt Mặt Trời Thái Dương, của nước Việt Mặt Trời, chắt, chút chít của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương (sừng) có chim biểu tượng là chim mỏ rìu, cắt, chim Việt Hồng Hoàng, chim mũ sừng vì thế rìu Đông Sơn đầu chim sừng là vật biểu, khí biểu chủ yếu và tối cao của Người Việt Mặt Trời Thái Dương.

Rìu Việt Đông Sơn thấy trong đại tộc Bách Việt và cũng thấy trong các tộc ngoài liên bang Bách Việt có nguồn gốc từ người cổ Việt Đông Nam Á hay bị ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn, văn

hóa Chim-Rắn, Tiên Rồng Việt Nam. Hình bóng rìu Việt chim Rìu mặt trời cắt Hồng Hoàng còn thấy dọc theo lối mòn DNA từ cổ Việt Đông Nam Á đi xuống hải đảo Thái Bình Dương hay đi theo lối mòn DNA lên eo biển Bering rồi chia ra làm hai nhánh: một nhánh đi theo vùng cận Bắc Cực Qua Đông Bắc Mỹ, xuống duyên hải Đông Hoa Kỳ ra biển Caribe. Một nhánh xuống Bắc và Nam Mỹ châu.

Ta có thể nhận diện được một rìu đồng Đông Sơn dựa theo: tính nòng nọc (âm dương), hình dạng, tộc người, khí biểu, vật tổ, trang trí, chữ nòng nọc vòng tròn-que, niên đại… vân vân. Một rìu có tất cả các yếu tố này xác thực danh tính rìu được thuyết phục nhất.

Rìu Đông Sơn hình xéo và hình hia mang âm tính thấy nhiều ở Việt Nam vì khuôn mặt Lạc Việt mang tính trội của liên hợp Lạc Hồng Việt.

Cần có những dữ kiện vững chắc để phân biệt một rìu mang tính biểu tượng chính thống với một rìu thường có trang trí mỹ thuật

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here