Báo Giấy • Tháng 04 năm 2020 • Năm thứ 5 • Số 59

0

Báo Giấy • Tháng 04 năm 2020 • Năm thứ 5 • Số 59

                         

 Phụ bản Brielle        *Joy, 1984 Jean-Michel Basquiat * Vũ Điệu Không Vần Tạp chí Phụ Nữ

                                                              Thơ • 2
SINH HOẠT VĂN HỌC
_______________________
Cuốn “Vũ Điệu Không Vần” được Domino.books xuất bản vào cuối năm 2019. Vì vậy, nhân dịp tôi về Việt nam thăm gia đình, nhà xuất bản Domino.books đã tổ chức buổi ra mắt sách, sáng 15/12/2019 tại Cà phê thứ Bảy, Quận 3, T/P HCM. Buổi ra mắt thành công với rất đông người tham dự, góp ý, trong đó có nhà phê bình nghiên cứu Văn Giá, Trần Hoài Anh, nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc, Hạnh Ngộ, Lý Đợi, Xuân Thủy, Phạm Quyên Chi … Các tạp chí Tuổi Trẻ, Báo Mới, Dân Trí, Phụ Nữ. Và cả những chống đối. Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới một đàn anh của tôi, nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, và anh Bùi Quang Viễn, nhà xuất bản Domini.Books, đã giúp xuất bản tập tiểu luận này.
Những người lớn tuổi đã quen với những thể thơ cũ nên khó đổi mới, vì họ lấy cái hay cũ đánh giá cái hay mới. Thậm chí không phân biệt được giữa thơ Tân hình thức Mỹ và Việt, giữa ngôn ngữ tiếng Anh (đa âm và trọng âm), và tiếng Việt (đơn âm), gán ghép cho Tân hình thức Việt dùng kỹ thuật lập lại để thay thế dấu nhấn. Và rằng, thơ Tân hình thức Việt không có những bài thơ hay.
Nếu muốn tìm hiểu thơ Tân hình thức Việt, chúng ta cần có kiến thức về thơ, và am hiểu vấn đề tới nơi tới chốn. Thơ Tân hình thức Mỹ trở lại thơ thể luật sau một thế kỷ phát triển thơ tự do, với những phong trào tiền phong, nửa sau thế kỷ 20, cung ứng toàn bộ kiến thức chưa bao giờ có về thơ, kể từ thời kỳ văn minh cổ đại Hy lạp. Tân ở đây là trở lại (retro) truyền thống. Còn Tân hình thức Việt là một thể thơ trở lại, bổ túc cho thơ có vần. Nhà phê bình Văn Giá trong một bài viết “Một bài thơ Tân hình thức Việt được cho là hay”, 2013, đã viện dẫn 5 bài thơ hay của những tác giả Khế Iêm, Nguyễn Thị Khánh Minh, Thiền Đăng, Nguyễn Tất Độ, Bỉm.
Thật ra, ở thời nào cũng vậy, Thơ Mới và thơ tự do thập niên 1960s ở Miền Nam cũng đều bị chống đối, vì những cái mới đã làm lung lay cái cũ. Thơ Mới và thơ tự do bùng phát lên thành những phong trào lớn, với cả ngàn người sáng tác, nhưng là chỉ lập lại những gì đã có. Còn thơ Tân hình thức Việt thì không. Có nhiều lý do để giải thích. Trước thập niên 1960s, không có nhiều phương tiện giải trí, ngoài ca nhạc, cổ nhạc, và thơ là bộ môn cao cấp nhất. Nhưng tới thập niên 1990s, Internet bắt đầu, và sau 2004s, với Website, Facebook, Youtube … cùng với hoàn cảnh xã hội, nên ít người còn quan tâm tới thơ, đặc biệt thơ Tân hình thức. Hơn nữa, thơ Tân hình thức Việt lại là một dòng thơ khó, với hai yếu tố mới và hay: Ý tưởng và Nhịp điệu, đòi hỏi người làm thơ phải có óc sáng tạo. Vì thế số người tham gia không nhiều.
Nhưng 15 năm sau, thế giới ảo dần phai mờ, và con người quay về với đời sống hiện thực. Thay vì đọc trên Internet, người đọc trở lại với cách đọc trên trang giấy, lôi cuốn bởi con chữ, “đắm mình trong tình tiết và cốt truyện”. Chẳng khác nào, “thơ Mỹ quay lại với thơ thể luật vào những năm đầu thập niên 1990s, sau một thế kỷ chiếm ưu thế của thơ tự do. Theo G. K. Chesteron, nhà thơ, triết gia, kịch tác gia người Anh, ‘cách mạng là phục hồi (restoration), đoạt lại (recapturing), giới thiệu lại một điều gì đó đã từng được hướng dẫn và truyền cảm hứng từ trong quá khứ.’ Hay nói khác, là cuộn lại (re-roll), quay trở lại (return), đi vòng quanh một lần nữa’.” Báo Giấy ra mắt số đầu tiên vào tháng 4/ 2014, gửi qua email để người đọc in lại, đọc trên giấy.
3 • Tân Hình Thức
Nhà thơ Inrasara lại cho rằng, nội dung thơ Tân hình thức không có cảm thức về thời sự, chính trị. Thơ, tự nó, không hề có mục đích. Và Tân hình thức Việt cũng chỉ là thay thế các thể thơ có vần, 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát, thành không vần, và gọi là thơ không vần, đóng góp vào sự làm giàu cho thơ Việt. Còn nội dung thế nào thì tùy thuộc người làm thơ, và hoàn cảnh họ đang sống, chứ có liên quan gì tới các thể thơ? Những nhà khoa bảng và nghiên cứu văn hóa, họ quan tâm tới kiến thức, nhưng người làm thơ thì không, họ quan tâm tới cái ngã nhiều hơn, nhìn thế giới qua cái tôi của họ. Triết gia thời cổ Hy lạp, Socrates, vượt ra khỏi cái ngã, tự biết mình dốt, nên ông đã tìm cách đàm thoại với mọi người chung quanh để hoàn chỉnh sự hiểu biết của mình. Nói chung, những người có hiểu biết thường là khiêm tốn.
Kiến thức + tưởng tưởng = sáng tạo. Kiến thức (chuyên môn) thúc đẩy tưởng tượng mới sinh ra sáng tạo. Chống thơ Tân hình thức chẳng khác nào phô bày sự thiếu kiến thức của họ và không hiểu gì về thơ. Thơ là một hình thái sáng tạo. Mà sáng tạo là phải đổi mới. Đổi mới ở đây là thể thơ chứ không phải đổi mới chữ như thời thơ Mới. Nếu suốt thế kỷ này qua thế kỷ khác, cứ nhai lại những thể thơ cũ, thì đó là một nền thơ chết. Và chỉ có những người làm thơ, chứ không thể có nhà thơ.
Thật ra, mọi thắc mắc hay chống đối đều đã được trả lời trong “Vũ Điệu Không Vần”, với 600 trang, khổ 6×9 inches. Tuy nhiên, trong buổi ra mắt sách, chính nhờ sự chống đối nên sinh hoạt mới trở nên sôi nổi, gây ấn tượng tới mọi người, và làm mạnh thêm cho thơ Tân hình thức.
*
Ngày hôm sau, tôi có buổi tọa đàm tại Đại học Nhân văn T/P HCM, với giới khoa bảng của trường. Suốt hơn 3 tiếng đồng hồ với sự chủ tọa của GS Võ Văn Nhơn, họ chỉ đặt câu hỏi để tìm hiểu thể loại thơ này chứ không hề phản bác. Tôi thật sự kính trọng cách ứng xử của họ. Sau này ở Huế cũng vậy, với giới khoa bảng tại hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế. Cũng cần nhắc lại, vào ngày 29 tháng 10 năm 2014, tại trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Khoa Viết văn – Báo chí phối hợp với Tạp Chí Sông Hương đã tổ chức một buổi tọa đàm về thơ Tân hình thức. Chứng tỏ, dòng thơ này đã được chấp nhận trong giới khoa bảng.
Nói thêm về nước Mỹ, chính triết gia người Trung quốc, Li Ming (biên dịch Nguyễn Hải Hoành), khi so sánh giữa người Trung Quốc và người phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, đã cho rằng: “chủng loại người nào có thể cung cấp cho nền văn minh của toàn nhân loại những nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nhà nghệ sĩ lớn đẳng cấp thế giới, thì chủng loại ấy là thông minh. Nói cách khác, qua so sánh, chủng loại người nào giỏi hơn về khám phá các quy luật mới (về tự nhiên, xã hội, tâm lý loài người), về phát minh công nghệ mới (tư duy, công cụ, máy móc), sáng tạo các tri thức mới (về khoa học, nghệ thuật), thì thuộc về chủng loại người thông minh.
“Ngược lại chủng loại người nào không giỏi, thậm chí không có thể khám phá quy luật mới, phát minh công nghệ mới, sáng tạo tri thức mới thì là không thông minh. Người TQ có thực sự thông minh không? Nếu người TQ thực sự thông minh như thế thì trong dòng sông lịch sử dài dằng dặc rốt cuộc họ đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại được bao nhiêu nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nghệ sĩ lớn cấp thế giới, cung cấp được bao nhiêu khám phá lớn về quy luật, phát minh lớn về công nghệ và nghệ thuật, sáng tạo lớn về tri thức?”
Thơ • 4
THE BLACK CAT
The black cat with my soul and a piece of
my rib, wakes up every morning not
washing its face, every morning not
brushing its teeth; the black cat with clay-like
eyes, opening and closing, or open-
ing and never closing, as it climbs up
and down the stairs, dragging with it my soul
and a piece of my rib, forgetting that
i had lived much darker days, since when and
why it was i had buried them in my
pocket full of notes gathered from
many different tales, strung together
to make up this story about the black
cat with my soul and a piece of my rib;
of course, that is the black cat with clay-like
eyes, not any other kind of eyes; even
as the black cat climbs up and down the stairs.
_________________
Note
“The Black Cat” is one of three very fine poems in the December 2007 edition of Poetry.about Forum (http://poetry.
CON MÈO ĐEN
Con mèo đen có linh hồn và chiếc
xương sườn của tôi, mỗi buổi sáng thức
dậy không bao giờ rửa mặt, mỗi buổi
sáng thức dậy không bao giờ đánh răng;
con mèo đen có đôi mắt bằng đất
sét, mở ra và nhắm lại, hay cứ
mở ra và không bao giờ nhắm lại,
trong lúc lên thang xuống thang, mang theo
linh hồn và chiếc xương sườn của tôi,
mà quên rằng, tôi đã sống những ngày
hôn ám biết bao, tự thuở nào và
tại sao thì tôi đành chôn kín, trong
cái túi đựng đầy những đoạn chú thích,
được lượm lặt từ rất nhiều mẩu chuyện,
để cấu thành câu chuyện về con mèo
đen, mang linh hồn và chiếc xương sườn
của tôi; dĩ nhiên, đó là con mèo
đen có đôi mắt bằng đất sét, chứ
không phải bất cứ đôi mắt nào khác;
mù đặc, trong lúc lên thang xuống thang.
__________________
Ghi chú
“Con Mèo Đen” là một trong ba bài thơ hay nhất trong tháng 12 – 2007 của Diễn đàn thơ Mỹ Poetry.about (http://poetry.about.com)
Nhân đây, chúng tôi đề cập tới bức tranh bìa của “Vũ Điệu Không Vần” (thiết kế bìa Minh Thái). Jean-Michel Basquiat (1960 –1988), một nghệ sĩ Mỹ và là họa sĩ đường phố gốc Phi đầu tiên trở thành ngôi sao nghệ thuật mang tầm quốc tế, theo Graham Thompson. Tài năng của họa sĩ nổi bật với nhiều tranh vẽ đa dạng, dày đặc chữ viết và hình ảnh cắt dán. Tác phẩm giá trị nhất, Untitled (Không Đề) của ông đã được bán với giá trên 110 triệu USD. Nếu Van Gogh lúc còn sống tranh chẳng bán được bao nhiêu, nhưng khi chết đi có giá cả trăm triệu USD thì Basquiat cũng tương tự. Và bắt đầu từ số này, chúng tôi thêm mục “Những Dòng Thơ Cũ”, đồng hành với Tân hình thức. Về phần dịch thuật, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc, bài “Art and Beauty” của Allan Burns do Điểm Thọ dịch.
Để kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, và hiểu rõ về thơ, dù ở thể loại nào, xin quí bạn đọc kỹ phần tiểu luận “Vũ điệu không vần”, đồng thời với những thân hữu sáng tác thơ Tân hình thức, phải theo đúng tiêu chuẩn: Ý tưởng và Nhịp điệu, và gửi cho Báo Giấy số sắp tới. Những tác giả đã gửi bài, xin chỉnh nhịp điệu, và gửi lại. Sau đây là bài thơ mẫu:
5 • Tân Hình Thức
SÁCH NHẬN ĐƯỢC
__________________
1/ Đi Tìm Ẩn Ngữ Văn Chương, tiểu luận phê bình Trần Hoài Anh, nxb Hội Nhà Văn, 465 trang
2/ Văn Hóa Văn Chương & Hành Trình Sáng Tạo, tiểu luận phê bình Trần Hoài Anh, nxb Thanh Niên, 265 trang.
3/ Văn Học Nhìn Từ Văn Hóa, tiểu luận phê bình Trần Hoài Anh, nxb Thanh Niên, 335 trang.
4/ Mỗi Ngày ta Sống, tản văn, tùy bút của nhà khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, nxb Tổng Hợp, 350 trang. Tổng số 21 tác phẩm của tác giả bao gồm tản văn, tùy bút, truyện ngắn và những nghiên cứu về khảo cổ. Mỗi Ngày ta Sống là một tác phẩm lôi cuốn người đọc như một hành trình thăm viếng khắp 3 miền đất nước, đẩy tới đỉnh điểm, trở thành những câu chuyện hiện thực, hướng dẫn du lịch.
5/ Ngọn Gió Qua Vườn, tuyển tập thơ, truyện ngắn của Ý Nhi, nxb Phụ Nữ, bìa Minh Thái, 830 trang.
6/ Phế Tích Của Ảo Ảnh, thơ Trịnh Y Thư, nxb Văn Học Press, 2017, bìa Nguyễn Đình Thuần, phụ bản Thái Tuấn, Đinh Cường, Nguyên Khai, Hoàng Xuân Sơn, 145 trang.
7/ Chỉ Là Đồ Chơi, tạp bút Trịnh Y Thư, nxb Văn Học Ptress, 2017, bìa & thiết kế bìa Đinh Trường Chinh, 270 trang.
8/ Tuyển tập truyện ngắn Trần Trường Khánh, nhóm dịch Lê Quang Trường, Phan Thu Vân, Nguyễn Hoàng Yến, Hồ Ngọc Minh, Hoàng Thị Thu Thủy, Nguyễn Đông Triều, nxb Văn Hóa – Văn Nghệ, 255 trang, với 7 truyện ngắn của nhà văn nổi tiếng của Đài Loan, Trần Trường Khánh, sinh năm 1946.
9/ Kỷ Niệm Không Có Mưa của nhà thơ Ý Nhi, nxb Domino Books, 315 trang, khổ 15×23 cm, kỷ niệm với những nhà văn, nhà thơ, họa sỹ Việt: Nguyễn Minh Châu, Đỗ Hồng Ngọc, Lê Minh Khuê, Tế Hanh, Xuân Quỳnh, Hoàng Trung Thông, Nguyên Hồng, Thái Tuấn, Trang Thế Hy, Dương Bích Liên, Phan Thị Thanh Nhàn, Tô Thùy Yên, Ngô Thị Kim Cúc, Chế Lan Viên, Xuân Sách, Bùi Giáng, Khương Hữu Dụng, Trinh Đường, Chim Trắng, Xuân Diệu, Vũ Quần Phương.
11/ Gã Tình Nhân Và Vở Kịch Không Dành Cho Sân Khấu, thơ Trầm Phục Khắc, nxb Văn Học Pree, 2020, bìa Duy Thanh, phụ bản Nguyễn Đại Giang, Đinh Trường Chinh, 150 trang.
12/ Pha Thơ Vào Biển Gió, thơ Lê Giang Trần, nxb Sống, 2019, bìa và phụ bản Đinh Trường Chinh, Trịnh Cung, 255 trang, Thơ Haiku Việt, sáng tác.
13/ Thơ Haiku Việt, sáng tác, bình luận, nghiên cứu, trao đổi, nhiều tác giả, lưu hành nội bộ, 105 trang.
14/ Tuyển tập thơ Haiku Việt, nhiều tác giả , nxb Hội Nhà Văn, 110 trang.
15/ Đã Là Một Phiền Toái, ng. anh anh, thơ song ngữ, nxb Domino Books, 85 trang.
16/ Dấu Mốc, thơ Tân hình thức Nguyễn Lương Ba, nxb Văn Học Mới, 2019.
18/ Có Những Ngày, thơ Tân hình thức Hồ Đăng Thanh Ngọc, nxb Thuận Hóa, 150 trang.
19/ Ký Ức Của Bóng, thơ Nguyễn Thị Khánh Minh, nxb Sống, 175 trang.
19/ Những Lầm Lỗi Định Mệnh Trong Cuộc Chiến Việt Nam, quyển 1, nxb Văn Học Press, 800 trang.
Thơ • 6

                                        NHỮNG DÒNG THƠ CŨ
_________________________
Thanh Tâm Tuyền
DẠ KHÚC
Anh sợ những cột đèn đổ xuống
Rồi dây điện cuốn lấy chúng ta
Bóp chết mọi hi vọng
Nên anh dìu em đi xa
Ði đi chúng ta đến công viên
Nơi anh sẽ hôn em đắm đuối
Ôi môi em như mật đắng
Như móng sắc thương đau
Ði đi anh đưa em vào quán rượu
Có một chút Paris
Ðể anh được làm thi sĩ
Hay nửa đêm Hanoi
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những giày vò ngày mai
Trích Liên Đêm Mặt Trời Tìm Thấy
NHỮNG DÒNG THƠ CŨ
_________________________
Mai Thảo
NGHE ĐẤT
Nằm đây dưới bóng cây xanh
Nhìn qua lá biếc lại xanh sắc trời
Mát thơm đất trải bên người
Nghe trong ẩm lạnh da người cũng thơm
Đất lên hương, thấm qua hồn
Nghe Vui thoáng đến với Buồn thoáng đi
Giữa giờ trưa nắng uy nghi
Bóng vây vây nhẹ hàng mi cúi đầu
Người nằm nghe đất bao lâu
Tai nương ngợ tiếng đời sau thở dài
Lung linh sóng nắng đan cài
Cõi Trong điệp điệp Cõi Ngoài mang mang
Chợt đâu rụng tiếng phai tàn
Rơi ngưng nửa dáng nắng vàng trôi qua
Linh hồn thiếp giữa triều hoa
Bóng hình thôi đã nhạt nhoà quanh thân.
Trích Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền
Thành Tôn
KẺ ĐÀO NGŨ
Buổi sáng soi gương và đội mũ
Lòng đã hồ nghi khuôn mặt quen
Dấu vết riêng nào trên nhân dạng
Đã hằng hằng không tuổi tên
Chân bước ra đường luôn chạm mặt
Những bàng hoàng trên nhan diện ai
Sống nửa đời người chưa dám chắc
Chân dung ta trung thực bao phần
7 • Tân Hình Thức
Nên nhiều lúc tâm thần chấn động
Một kẻ nào ẩn dạng, âm mưu
Hắn tà giáo hay giòng chính thống
Mặt đầm đầm đường nét hư vô
Những dội đập ngày đêm bấn loạn
Trán phẳng phiu dậy sóng muộn phiền
Thân chống bộ xương ròn hữu hạn
Hồn mang ảo giác kẻ tham thiền
Ngực sống đã mơ hồ nhịp đập
Tim trong tay kẻ lạ âm thầm
Cõi nào phân chia miền tranh chấp
Thân vô cùng ràn rụa mối thương tâm
Ta bắt gặp ngoài ta hình bóng
Những đường quen nét thuộc nghi ngờ
Kẻ đào ngũ lầm lì, ngập ngọng
Nhàn nhạt trong cơ thể hồ đồ
Kẻ đào ngũ, chính ta trong hắn
Ngực cơ hồ đập nhịp ai xa
Trích Thắp Tình
Trịnh Y Thư
GIÓ TÊ LÒNG VIỄN XỨ
Tôi vẫn nhớ khúc quành thế kỉ
ba mươi năm
mà như một thoáng phù vân.
Gió tê lòng viễn xứ
gây gây nỗi nhớ
và những điều không hiểu.
Chỉ còn mớ kí ức thảm thương
làm hành trang cho những
chuyến hành hương tuyệt vọng.
Nào biết có một bến bờ
bên kia vùng đất khô gió lạnh.
Trong giấc mơ những năm tháng lưu đày
tôi nhận ra nỗi đau tủi nhục
của kẻ sống trọn kiếp trong bóng đêm.
Khế Iêm
EM ĐÃ BAY ĐI
Tưởng nhớ người em gái
Một mẹ già ngồi bên xác con
Trong đêm sâu mặt trời rất rộng
Trong đêm sâu cánh đồng ấm mộng
Em bay ngang em cười mênh mông
Hỡi đôi mắt nhìn ta ái ngại
Hỡi đôi mắt vời ta ở lại
Hỡi đôi mắt nhìn ta ngây thơ
Hỡi đôi mắt ngủ quên trong mơ
Ta kéo xác em đi trên đường phố lạ
Một thoáng qua thôi em đã là tro bụi
Một thoáng qua thôi em đã qua đời
Bão tố nào vùi một cánh chim côi
Một người yêu đứng khóc bên mồ
Một rừng hoa tươi giữa chốn khăn sô
Em đã đi đâu chỉ còn màu nắng dại
Hay đã tan thành một chút hư vô
Ngày 7 tháng 11-1983
Ý Nhi
CHÙA TRONG PHỐ
Phố như thể cuộc đời
dài xa và náo động
mỗi bước chân người đi
mưa dầm rồi nắng bỏng
Chùa như thể bóng cây
giữa tháng ngày vất vả
người mệt mỏi dừng chân
dưới màu xanh che chở
Dẫu bao năm tháng nữa
cuộc đời rồi đổi thay
chùa vẫn còn bên phố
và người còn qua đây.
Thơ • 8

                                               THƠ TÂN HÌNH THỨC
____________________
Nguyễn Đặng Thùy Trang
NHỮNG CÁI TÊN
Bạn đặt tên con là những cánh chim
trời Thiên Di hãy làm những gì con
muốn và tự do trên trái đất này
em đặt tên cho đứa bé là Thiên
Lam một bầu trời biếc xanh vẫy vùng
chân trời cuối bể những đứa trẻ mang
cho mình hi vọng thật mới chúng ta
không hong nổi mình nữa dù nắng đã
lên đầy chúng ta bị nhốt trong một
vùng trời hoa tím dại sống trong nỗi
nhớ thương sóng và những lênh đênh gió
chúng ta cột chặt giấc mơ vào đêm
và ngày không buông tay tự bàn tay
ta đan dây thừng và rồi trói mình
ở lại căn phòng đầy bão tố rồi
mai đây chỉ có ánh mắt trốn tìm
ánh mắt mò mẫn chơi trò trẻ con
nhấp nháy tìm kiếm gì ngoài trời ngoài
thế giới hãy đi tìm thế giới hãy
đi tìm màu xanh hãy đi tìm cùng
nhau hãy đi tìm tự thân – tự mình
là hải đảo nếu đi không được thì
gửi gắm vào những cái tên và phiêu
lưu trong đêm đen dù tất cả chỉ
mới bắt đầu …
Hường Thanh
ÔM MẶT
Người đàn ông ôm mặt và
quỳ xuống khuôn mặt dưới đất
đá thực ra người đàn ông
ôm mặt của mình khi quỳ
xuống nhìn khuôn mặt hiện rõ
ràng dưới đất đá có khuôn
mặt không có mắt nhìn nhìn
lên người đàn ông đang ôm
mặt mình có tiếng khóc phát
ra và tiếng kêu thốt than
lời làm run rẩy bẩy bàn
tay người đàn ông đang ôm
mặt kêu “trời ơi, trời ơi”
khuôn mặt dưới đất đá không
có một âm thanh nào thành
tiếng nói bởi người đàn ông
đã mất đi vợ con từ
lâu lắm khuôn mặt dưới đất
đá không phải nơi đã chôn
vùi đi gia đình người đàn
ôm mặt mình nhìn xuống khuôn
mặt thực ra đã thành đất
đá ngổn ngang những tiếng kêu
than giờ ở trên mà thôi.
6.7.2016
THƠ TÂN HÌNH THỨC
____________________
9 • Tân Hình Thức
Thạch Tốt
ĐÊM KHÔNG CÙNG
1.
Anh cũng bắt đầu nhớ lại hơn
Mấy mươi năm về em anh mới
Có được một niềm hạnh phúc anh
Sẽ mang về cho em niềm yên
Vui anh sẽ chọn chắc chắn không
Bằng đường hầm hay sẽ đi trên
Con tàu lửa suốt. Con tàu vĩ
Tuyến bắt đầu băng băng em a.
Hơn mấy mươi năm về em về
Huế thân yêu của em anh cũng
Bắt đầu nhớ lại nhắc lại làm
Gì trời xa ngái sương mù lạnh
Lẽo mưa thút thít em vẫn thế
Ư? Máu đi máu sẽ về ôi
Giòng sông căn nhà con đò hãy
Nhớ em máu tìm về biển đông
2.
Đoàn xe chạy dần vào thành phố
Khi tôi đưa ngườI em gái về
Bên kia giòng sông. Nơi những hàng
Kẽm gai vây theo con đường bưng
Kín. Hãy đi trong lớp bụi mù
Nghe lời vọng âm vi vu trong
Từng tiếng bánh xe đổ dài theo
Mặt đường xa vắng. Dừng lại trong
Một giả từ thoáng chốc. Rồi em
Sẽ chìm dần trong con ngỏ âm
u. Hãy thắp sáng những nẽo đường
thắp sáng giòng sông tiếng cười ttrẻ
thơ. Xin cúi đầu trước những dung
nhan . Một đời gian lao cho tàn
tấm thân. Một đời dưỡng nuôi mơ
hồ mở đường cho con tiến lên.
3.
Anh thử hỏi một buổi mai nào
Đó gặp lại em, anh tự nhủ
Cuộc sống tràn đầy ra đấy sáng
Trưa chiều tối anh đi về thử
Hỏi bao lâu rồi mình thấy mình
Sống như Zarathoustra mặc khải
Chân lý rồi thì em ăn chay
Trường một buổi mai nào đó gặp
Lại em anh tự nhủ ghé chợ
Mua trái cây xin em xin em
Cho anh những gì đã mất đã
Không thấy. Liên em quy nhơn ơi
Anh thử hỏi một buổi mai nào
Đó gặp lại em anh tự nhủ
Nhiều cánh đồng xây lá lộc non
Tiếng một người ngoài kia trở về.
Vương Ngọc Minh
THƠ TÂN HÌNH THỨC
Tất cả các tì nh cả m
nà o tì nh quê tì nh em
tì nh nhà chuyển biến theo
đây nó sẽ làm cá c
câu (chữ) chao nghiêng ôi
chao tại làm sao tâm
trạ ng tôi hôm nay trở
nên mỏng dánh mỏng hệt
vành hà ng chuông đồ ng củ a
tây tạng hễ chạm vào
tự khắ c chúng đồng loạt
ngân nga một cách hết
sức êm ả sự êm
ả (kéo dài lắm!) tuy
nhiên sự êm ả dù
có kéo dài bằng một
Thơ • 10
đời người cũng chỉ khiến
các ý nghĩ trong tôi
tích tắc tản mác trong
tiếng “chách!” của cái búng
tay bấy giờ thời gian
tất cả các tì nh cả m
nà o tì nh quê tì nh em
tì nh nhà hoàn toàn bị
lũ chữ tự trờ i/ đấ t
phủ dụ cho mê hoặc
cho cô đọng theo đó
chuyển biến ôi chao sao
tôi vẫ n chả làm gì
cả (!) có phả i theo khái
niệm thời gian ta nói
há miệng mắc quai tôi
còn biết để tất cả
các tì nh cả m nà o tì nh
quê tì nh em tì nh nhà
chuyển biến (mà !) chữ “tình”
thì là m sao thoát được
chứ hiện thờ i chữ “tì nh”
vẫ n mắc nghẽn ngang cuống
họng (tôi đã tự hỏ i
có phả i do tâm tí nh
ta cạn cợt!) tự trái
tim (dù cằn cỗi có
tắ t nghỉ cứ giữ vẹn
chữ “tình”!) có chế t không
chứ (!) với tất cả các
tì nh cả m nà o tì nh quê
tì nh em tì nh nhà chuyển
biến từng thớ thịt trên
mặt tôi đương co rúm
(tự lúc nào chính tôi
còn không biết!) việc cố
mở lớn hai mắt cốt
nhìn tư cách pháp nhân
cái búng tay thực bất
khả tư nghị tôi phải
khiển môi miệng mình run
(giật) từng hồi nhìn lại
hình hài sững sờ nhận
thấy tấm thân từ lâu
đã nhuộm màu xám (bạc!)
lầ n hồ i chuyển dần qua
màu đen (màu hắc ín!)
mười móng chân đậ m bù n
tuy vẫn bấu chắc cuộc
đất ở tạ m nhưng tất
cả những tì nh cả m nà o
tì nh quê tì nh em tì nh
nhà chú ng ưa chuyển biến
theo tiếng búng tay cái
“chách!” quả khôn lường nó
bắt lồng ngực tôi thắt
đến độ có cảm tưởng
sau mỗi bài thơ việc
đàn hồi co giậ t lộ
thấ y hế t ra trên mặt
là chứ ng (tậ t!) đã tớ i
hồ i vô phương chữ a. chạ y.
Nguyễ n Hả i Thả o
BAN MAI
Qua đêm đen. Ngà y rự c nhữ ng
tia nắ ng tướ i đề u trên thả m
cỏ mướ t xanh sứ c số ng. Phố
bắ t đầ u ngà y mớ i vớ i rộ n
rà ng ngườ i xe. Tôi mở cử a
trá i tim hò a nhị p đậ p buổ i
sá ng và mở toang khá t vọ ng …
20.03.2017
11 • Tân Hình Thức
Xuân Thủy
VẾT THƯƠNG
Chỉ những vết thương làm
Dưỡng chất cho tình yêu
Nảy nở trên đôi môi
Kia đi tìm những vết
Thương chữa lành những vết
Thương không ai đi tìm
Nỗi đau của bạn chỉ
Những vết thương tìm nhau
Không ai đi tìm những
Vết thương của bạn chỉ
Đi tìm dưỡng chất cho
Tình yêu nảy nở nhưng
Không vì ai cũng không
Đi tìm những vết thương
Nên không thể tìm dưỡng
Chất cho tình yêu được
Vì chỉ có những vết
Thương là dưỡng chất cho
Tình yêu nảy nở mà
Không ai không ai đi
Tìm những vết thương của
Bạn ngoài những nhà thơ
Không có gì ngoài những
Vết thương không ai tìm
Đến ngoài người yêu người
Yêu bạn yêu những nhà
Thơ sống mà không cần
Chi không cần chi cả.
Nguyễn Ngọc Trừu
ĐÁNH ĐÒN ĐAU NỖI NHỚ
Nhìn nỗi nhớ đi vội
vã lê gót về khi
đã tả tơi đau đã
tả tơi đau nỗi nhớ
hóa trang đeo mặt nạ
vậy mà người ấy vẫn
nhận ra điện thoại nghe
chỉ vài câu chỉ vài
câu chiếu lệ trang cá
nhân bỏ cả năm đèn
không sáng ngả đường nào
tránh được xót xa chỉ
là nhớ không mảy may
hò hẹn gặp gỡ không
nói chi đến tâm tình
nhớ là để thêm điều
để nhớ xưa bên em
người là hòn than đỏ
giờ lạnh lùng như một
tảng băng trôi dặn nhiều
rồi nỗi nhớ chả chịu
nghe thêm lần nữa em
ra đòn chiều nay đau
quá thương dáng run run
len lẻn len lẻn ra
ngoài ngõ em nhìn theo
lắc đầu lắc đầu nước
mắt thấm nước mắt thấm
qua môi…
Thơ • 12
Phạm Quyên Chi
BÀN TAY
Hai bàn tay bốn bàn
tay chẳng nắm chẳng còn
nắm được thanh cây gầy
có chiếc móc móc vào
chiếc rổ rỗng đi đi
bắt mặt trời đi đi
vớt nhẹ ánh hào quang
lộng lẫy hai bàn tay
bốn bàn tay như rụt
lại thanh cây gầy rơi
xuống chỉ còn đung đưa
đung đưa chiếc móc lơ
lửng móc vào chiếc rổ
rỗng đi đi tìm ước
mơ cháy bỏng một đứa
trẻ hai đứa trẻ thuộc
lòng cách thức chạm vào
điều chúng kiếm tìm nhưng
hai bàn tay bốn bàn
tay trẻ thơ sẽ không
hoặc không rời vị trí
thanh cây vẫn đứng thẳng
giữa trời đất bao la
tại nơi mặt trời chiếu
xuống vậy tất cả giống
hình ảnh giữa khu rừng.
Nguyễn Văn Bút
CHIỀU THÁNG BA
Ô kìa! Hoàng hôn rớt
Trên tay tôi ngơ ngác
Cầm con diều đứt dây
Đầy màu sắc nhưng lạnh
Lẽo làm tôi ớn cả
Sống lưng mà không thể
Bỏ chạy đi ngay lúc
Này ngoài bờ sông nước
Róc rách không dễ chịu
Khi chiều tháng ba nằm
Im lìm như trái tim
Không còn biết nghĩ ngợi
Nhiều về chiều tháng ba
Năm trước lục lọi trong
Trí nhớ chẳng có gì
Ngoài việc tôi bỏ chạy
Và hoảng loạn trước trận
Cải vả đập cả con
Đường về nhà tôi lúc
Hoàng hôn nhuộm đỏ giấc
Mơ đến nóng rực chiều
Tháng ba làm cọng cỏ
Hoang dại bờ phờ trên
Đôi mắt thằng bé chưa
Từng hối hận về cuộc
đời đi đâu đó vào
chiều tháng ba không hẹn.
Nguyễn Thanh Sơn
NHAN SẮC VÀ ĐỒNG TIÊN
VÀ DANH VỌNG
Tôi muốn viết điều gì đó để
Đời nhưng bóng người đàn
Bà lướt qua là tôi không thể
Nhan sắc choán tâm trí tôi
Tôi muốn viết điều gì đó để
Đời nhưng tờ dollar xanh đỏ
Lững lờ là tôi không thể không
Thể đồng tiền nhận chìm (xuồng) tôi.
Tôi muốn viết điều gì đó
Để có nhiều tiếng tăm nhưng
Con chữ bảo tôi kẻ háo danh
Nên không thèm chơi nữa.
13 • Tân Hình Thức
NGHỆ THUẬT VÀ CÁI ĐẸP
_________________________
Allan Burns
Nghệ thuật đã làm ra đời sống, làm ra thích thú, làm ra quan trọng … và tôi không hề biết đến bất cứ thay thế nào khác cho sức mạnh và cái đẹp của tiến trình nghệ thuật.
Henry James, thư gởi H.G.Wells
Dĩ nhiên, nghệ thuật và cái đẹp không đồng nghĩa: ta có thể dễ dàng nghĩ đến nhiều tác phẩm nghệ thuật cố tình tránh né cái đẹp để theo đuổi vài ba lý tưởng hay tác động nào khác. Ở thế kỷ mười chín, sự đổ vỡ của các hình thức mỹ thuật truyền thống và niềm tin, không gian kỹ nghệ thành phố thô tục, và những thứ nhân cách kinh khiếp – đáng kể nhất là trong hai thế chiến – đã góp phần xa hơn nữa vào việc phân ly nghệ thuật và cái đẹp. Nhiều nghệ sĩ cảm thấy theo đuổi cái đẹp không thật sự để trải nghiệm. Dường như nghệ thuật là phẩm chất hời hợt, phiên bản tóm tắt của các khái niệm trưởng giả ẩn náu. Có lẽ cái đẹp không phải là đặc tính chính khi ta nghĩ về tranh vẽ của Picasso, nhạc của Stravinsky, hay thơ của T.S. Eliot. Cũng không phải là đặc tính chủ yếu mà ta có thể liên tưởng tới nhiều nghệ sĩ tên tuổi của những thế kỷ trước, kể cả Dante, Michelangelo, Beethoven, và Goya.
Dù vậy, trong nhiều thời đại, nơi chốn, và trong nhiều truyền thống nghệ thuật và hình thức, sáng tạo cái đẹp vẫn là mối quan tâm tối cao. Riêng ở thế kỷ mười chín, nhiều nhà thơ, như Keats, Poe, Tennyson, và Swinburne, đã phấn đấu hơn tất cả mọi người, để tạo ra ảnh hưởng đẹp trong thơ của họ. (Một cách khác để hiểu việc bác bỏ cái đẹp, thịnh hành ở thế kỷ hai mươi trong nghệ thuật, đấy là phản ứng đối lại việc nhấn mạnh quá mức vào điểm chủ yếu này trong nghệ thuật ở thế kỷ mười chín). Thơ, với nguồn căn của nó trong nhịp điệu, và âm thanh và ảnh tượng, có lẽ, sẵn sàng hơn hết để thích hợp với việc sáng tạo cái đẹp hơn bất cứ hình thức nghệ thuật nào ngoại trừ âm nhạc. Bởi vì vậy mà vài nhà thơ đã thử đặt thơ ngang hàng với chính cái đẹp. Phần nhiều thơ Mỹ thế kỷ mười chín và lý thuyết thơ đã minh chứng cho khuynh hướng đó. Thí dụ như Edgar Allan Poe, định nghĩa thơ là “Sáng tạo Nhịp điệu của Cái Đẹp” (The Rhythmical Creation of Beauty), và Ralph Waldo Emerson, gọi nhà thơ là “người của Cái Đẹp” (man of Beauty). Cả hai, Poe và Emerson cũng làm những bài thơ có ý nghĩa về tính cách tự nhiên của chính cái đẹp. “To Helen” (1831, bản sửa 1845), là một trong những bài thơ mà lời thơ nổi tiếng nhất của Poe, đã lấy hứng từ mẹ của một người bạn, Jane Stanard, đã mất vì điên cuồng năm 1824, ở tuổi hai mươi tám. Poe biến đổi Stanard thành một nàng thơ gây hứng lý tưởng, mang lại cho nhà thơ những tư tưởng cổ điển tinh khiết. Giản dị chỉ bằng cách nói với Stanard thể như nói với Helen, Poe gợi lại Hy lạp cổ xưa, vì trong thần thoại Hy Lạp, Helen là con người đẹp nhất. Là con gái của Zeus và vợ của Menelaus, vua xứ Sparta, cô bị Paris bắt cóc, một biến cố đã gây ra Trận Chiến Trojan; vì vậy, theo Faustus của Christopher Marlowe,
Thơ • 14
cô có “gương mặt đẩy ngàn chiến thuyền ra trận”. Trong bài thơ của Poe, nét đẹp cổ điển của Helen, mà trong cái gật đầu thông hiều với Marlowe tương tự một chiếc tàu, đưa người nói, một cách ẩn dụ, về đến “bến nhà”, hay (đến) lý tưởng mỹ thuật cá nhân. Helen đã mang ông trở lại – trong những câu nổi tiếng nhất của bài thơ – “To the glory that was Greece / And the grandeur that was Rome.” (Phiên bản năm 1831 có nhiều câu kém hơn “To the beauty of fair Greece / And the grandeur of old Rome”. Một yếu điểm của nguyên bản là Hy Lạp thì xưa hơn Rome nhiều, khiến cho tính từ “cũ/cổ/xưa” (old) có vẻ không chính xác trong bối cảnh này. Bản sửa lại cho thấy chính xác nhiều hơn cũng như cách lập lại âm đầu đáng nhớ). Đoạn thứ ba, khó hơn hai đoạn trước, biến dạng chân-dung-người-phụ-nữ-lý-tưởng thành một tác phẩm nghệ thuật: cô biến thành “như-tượng-đá”. Những biến dạng xa hơn nữa thay đổi tên từ Helen ra Psyche (linh hồn, hay nữ thần linh hồn) và “đất nhà” ra “Đất-Thánh”. Ảnh hưởng tạo hứng của người đàn bà đã được nội tại hóa hoàn toàn bởi nhà thơ. Cái đẹp, một trừu tượng sống trong sự tưởng tưởng vượt trên cái chết của bất cứ sinh vật nào, biến thành lý tưởng dẫn đưa nhà thơ không phải vào chính cái thế giới cổ điển đã mất từ lâu, mà vào “Đất-Thánh” của sáng tạo nghệ thuật. Lý tưởng cổ điển của cái đẹp như vậy đã được tái sinh trong tác phẩm của riêng nhà thơ.
Ngược với viễn tượng chú trọng đối nội của Poe, “Each and All” (1847) của Emerson lấy quan điểm chính thể luận về đối tượng đẹp trong quan hệ với bối cảnh của chúng. Mở đầu bài thơ (câu 1-12) thám hiểm tính chất liên kết bất ngờ của các thứ, nhất là cách mà chúng mang lại khoái cảm mỹ thuật cho người quan sát thường là không cố tình. Emerson trình bày một tranh luận trừu tượng từ những thí dụ của mình – “All are needed by each one; / Nothing is fair or good alone.” (Theo tiền lệ triết học cổ điển, Emerson đúc kết cái hay với cái đẹp, giúp trong việc giải thích tại sao ông gồm luôn thí dụ về “tín điều của láng giềng” (neighbor’s creed) với những thí dụ thuần mỹ thuật về những ảnh hưởng không cố tình). Rồi ông tiếp tục với ba thí dụ riêng biệt, mỗi thí dụ minh họa làm thế nào khi lấy đi một thứ từ trong bối cảnh, có khuynh hướng làm giàm đi nét đẹp của nó. Những thí dụ về chim sẻ, vỏ sò, và nàng hầu đều kiếm cách để củng cố ý tưởng rằng cái đẹp không hẳn là đặc tính của một đối tượng, cũng không hẳn là đặc tính của những mối liên hệ giữa các đối tượng, những mối liên hệ ấy hợp nhất bởi nhận thức cảm tính của người quan sát. Bằng cách lấy đi một thứ từ trong bối cảnh của nó, theo Emerson, bạn không cô lập cái đẹp của nó được, mà thật ra là hủy diệt nó. Phát ngôn nhân của bài thơ, đối mặt với bằng chứng này, thoạt đầu coi thường cái đẹp như là một phẩm chất trẻ con, thấp kém so với sự thật; nhưng rồi hắn sẽ đi đến chỗ hoàn toàn biết ơn cái đẹp, một khi thay vì sưu tầm các mẫu mã, hắn đối diện với toàn thể thiên nhiên. “I yielded myself to the perfect whole,” ông viết trong dòng thơ đáng nhớ tột điểm của bài, một cử chỉ rộng lượng tự-quên-mình. Bài thơ khéo léo tóm tắt niềm tin tiên nghiệm của Emerson, trong sự liên kết tất cả các thứ.
Một bài thơ khác của Emerson cũng có liên quan đến, “The Rhodora” (1847) loại thơ biểu tượng hoa, truyền thống thuở đầu của Mỹ, cũng gồm có bài “The Wild Honey Suckle” của Philip Freneau, “The Yellow Violet” và “The Fringed Gentian” của William Cullen Bryant, và “To the Dandellion” của James Russell Lowell. Tuy nhiên, theo chủ đề thì bài thơ của Emerson giống “To a Waterfowl” của Bryant hơn (đã bàn luận dưới tựa đề “Skepticism & Belief”), trong đó nhà thơ trực cảm được một “Sức mạnh” lớn hơn, qua cách quan sát hình thức đời sống khác. Nửa phần đầu của bài thơ nghiêng về miêu tả: Emerson tìm được đóa hoa trong rừng tháng Năm, nơi mà những cánh hoa màu tím, rạng rỡ hơn cả lông chim hồng tước, đã rơi trong hồ nước. (Apostrophe/The act of turning away, turn away: dấu lược (‘) / hành động quay đi, quay đi). Quay đi theo nửa đoạn sau: Emerson nhắc đến hoa để trả lời cho những người đang tự nghĩ, tại sao nét quyến rũ của nó “lại bị phí phạm ở trời đất” – đấy là nhắc lại câu kết từ đoạn thứ
15 • Tân Hình Thức
mười bốn (bài thơ nhiều đoạn bốn câu) được ca tụng của Thomas Gray trong “Elegy Written in a Country Churchyard”: “Full many a flower is born to blush unseen, / And waste its sweetness on the desert air.” (Rất nhiều hoa nở không ai thấy sắc màu/ Và phí phạm cái đẹp của nó nơi không người). Câu trả lời mà Rhodora mang lại là “Beauty is its own excuse for being.” (Đẹp là bào chữa của riêng nó cho sự có mặt của mình). Emerson loại bỏ những tường trình rút ngắn về cái đẹp, thay vào đó, ưa chuộng ý niệm rằng cái đẹp tự nó là đoạn kết và là đoạn kết của nó hơn. Bài thơ không có câu trả lời cho câu hỏi “Từ đâu?” ở tiểu đề, thay vào đấy, nó diễn tả một niềm tin ngây thơ trong “Sức Mạnh”, theo số mệnh đã mang cả hai nhà thơ và đóa hoa lại với nhau. Việc làm của Emerson trong bài thơ này không phải để giải thích nguồn căn của các thứ mà là ca tụng cái đẹp của thứ đang hiện hữu.
Bài thơ ngắn “Art” (1891) của Herman Melville cho thấy một trong những ý tưởng chính ở thế kỷ mười chín về nghệ thuật lớn: rằng nó kết quả từ việc hòa hợp các đối nghịch. Melville lấy cái ý này từ nhà thơ tiếng Anh và nhà phê bình có ảnh hưởng rất lớn, Samuel Taylor Coleridge, là người đã suy từ triết gia người Đức F.W.J. Schelling. Mơ về sáng tạo nghệ thuật, bài thơ khẳng định là tương đối dễ; cái khó dính líu với việc biểu hiện ý tưởng của mình trong một hình thức riêng biệt. Như thế, nghệ thuật là sự hòa hợp của hai nguyên tắc đối nghịch: ý tưởng và hình thức. Đoạn giữa của bài thơ Melville kể ra nhiều cặp đối nghịch – thí dụ như “Sad patience – joyous energies” (Kiên nhẫn buồn bã – Năng lực thống khoái) – phải gặp nhau và “kết bạn” nếu muốn tạo nên nghệ thuật thật. Ở đoạn kết của bài thơ, Melville dẫn chứng bằng hình ảnh Jacob vật lộn với thiên thần (trong Genesis 32), tương tự như những khó khăn của nghệ sĩ trong việc phấn đấu để sáng tác. Đối với tác giả Moby-Dick, nghệ thuật rõ ràng là một cam kết vô cùng lớn, cần đến tinh thần và tình cảm vượt bực của mình. Độc giả nên để ý rằng bài thơ của Melville không hề nhắc đến cái đẹp dù chỉ một lần. Không giống như Poe, đối với Melville, nghệ thuật chính yếu không phải là sáng tạo của cái đẹp (hay vài ba hiệu quả tương tự), mà là một phấn đấu vĩ đại và nghịch lý để hòa hợp đối nghịch.
Trong khi bài thơ “Art” của Melville chú trọng vào nghệ thuật nhưng không nhắc đến cái đẹp, thì các bài thơ “Euclid Alone Has Looked on Beauty Bare” (1920) của Edna St. Vincent Millay và “Beauty” (1921) của Elinor Wylie chú trọng vào cái đẹp mà không nhắc đến nghệ thuật. Bài thơ mười-bốn-câu của Millay nhấn mạnh vào vẻ tự nhiên khó nắm bắt của cái đẹp, nhân cách hóa (nó) như là một loại nữ thần chân dép lảng tránh. Bài thơ chế giễu những người vẩn vơ nói đến “cô” mà không có hiểu biết chân thật: họ như một đám ngỗng ồn ào chỉ quan tâm đến mình, mà âm thanh ầm ĩ của họ ngăn chận không cho họ nhận thức được bất cứ gì có ý nghĩa về cái đẹp của thế giới. Đối chiếu lại, Millay đưa ra thí dụ Euclid, nhà toán học cư dân thành phố Alexandria (Ai Cập) mà những việc làm của ông vẫn còn được dùng như cơ bản cho bất cứ gì mà chúng ta hiểu được về hình học. Bằng cách cho sử dụng thông thái của mình rộng rãi, Euclid làm giàu vô lường cho sự hiểu biết của chúng ta về luật trừu tượng của cái đẹp. Bài thơ có vẻ như đặt ngang hàng việc ngắm nhìn cái đẹp, không hẳn như xem xét những riêng biệt, như một nhà thơ thường làm, nhưng với nhận thức những mô hình và định luật bên dưới. Bài thơ kết luận bằng cách tái khẳng định rằng chỉ riêng mình Euclid đã ngắm kỹ trực tiếp cái đẹp trần trụi, nhưng rồi thêm vào là ngay cả những người chưa lần nào nghe bước chân nàng từ xa (thí dụ, những người nhận biết một cách mập mờ về sự có mặt của nàng) cũng đã may mắn. Đối với Millay, nhận thức cái đẹp không phải là thứ được cho, mà là kết quả của tìm tòi có kỷ luật.
Thơ • 16
Wylie, trong ba khúc thơ bốn chữ cô đọng cũng nhân cách hóa đối tượng của bà, một lần nữa, như một thực thể phái nữ. Thay vì nhấn mạnh vào tính bẽn lẽn của cái đẹp, Wylie nhấn mạnh cá tính vô ý thức luân lý (nhưng không phải là vô luân lý). Cấu trúc của bài thơ hầu như có thể miêu tả được trong điều kiện biện chứng của chính đề, phản đề và tổng hợp. Khúc thơ bốn câu đầu xác minh rằng cái đẹp không hay ho, khúc thứ hai rằng cô ấy không xấu xa, khúc thứ ba thì cô ấy không hay ho cũng chẳng xấu xa, nhưng thay vào đó là “ngây thơ và man dại”. Đối với Wylie, cái đẹp là một khái niệm vô ý thức luân lý và như vậy, vừa suy đồi vừa thiếu sót. Wylie cảnh cáo những người-sẽ-là-thẩm-mỹ-gia không nên yêu cái đẹp quá đáng, bởi vì thế đã báo trước một thất bại lớn hơn cả việc khẳng định tính vô luân lý của cái đẹp. Cái nguy hiểm khác nữa là trân quý nàng, bởi vì thế là nàng được phép tự do sử dụng tính man dại của mình. Hai hình ảnh tượng trưng tóm gọn khái niệm về cái đẹp của Wylie: lừa bịp của đoạn thơ mở đầu và đứa con (tinh thần) của đoạn sau cùng, cả hai cùng lúc đại diện cho ngây thơ và hoang dã. Hình ảnh đứa trẻ, xén hết bất cứ tình cảm ủy mị nào có thể bám vào nó, thoạt đầu bởi sự nhấn mạnh đặt nơi “trái tim cứng rắn”, cho thấy rằng sự ngây thơ không tự động ám chỉ nỗi đam mê, không khác hơn việc cái đẹp ám chỉ sự tốt lành.
John Crowe Ransom khảo sát bản tính tự nhiên của cái đẹp không bất tử trong “Blue Girls” (1924), lời thơ ít trừu tượng hơn lời thơ của Millay và Wylie. Bài thơ thúc đẩy những cô gái tuổi-đại-học nên nắm lấy thời trẻ trung và nét đẹp của mình và tận dụng chúng, theo với truyền thống của nhà thơ người Anh thế kỷ mười bảy Robert Herrick (tác phầm của ông gồm có những ca từ đáng khen ngợi như “To the Virgins, to Make Much of Time”). Ransom tán thành sự hiện hữu gần như-là-con-thú, bất cần đến tính thông thái hay tự ý thức ức đoán về tương lai. Những lý do cho các ưa chuộng này xuất hiện khi giọng điệu bài thơ dần tối đi. Bước ngoặt quyết định đến ở nhịp điệu thứ nhất của đoạn thơ thứ ba: “before it [beauty] fail… It is so frail.” Cặp này (“fail”/”frail”) tăng cường độ cho thứ đã được gợi đến trong câu 6: “And think no more of what will come to pass.” Cái gì rồi sẽ qua đi, đó là cái đẹp rồi sẽ phai đi. Đoạn thứ tư chứng minh khái niệm này bằng cách nhắc đến một câu chuyện mà nhà thơ nói rằng ông có thể liên kết đến các cô (đấy là ám chỉ lớp độc giả thứ hai vì bài thơ còn vượt trên chính các cô nữa). Ransom nói về một bà già mắt mờ và “miệng lưỡi ghê gớm”, đã từng đẹp hơn bất cứ cô nào trong “đám con gái xanh”. Giờ thì mọi “tuyệt mỹ” của bà đều “mờ xỉn”. Sự ám chỉ ở đây rất rõ ràng: “đám con gái xanh” một ngày nào đó tự họ cũng sẽ đi xuống như người đã từng đẹp hơn các cô. Từ đầu đến cuối, Ransom phát triển đề mục tính mỏng mảnh của cái đẹp và sự suy tàn không tránh khỏi bằng cách nhắc đến màu xanh. Màu xanh, gợi đến bầu trời và thế là sự tươi mát và tinh khiết, là màu váy của các cô và của những con chim xanh mà nhà thơ so sánh với nhau. Ransom liên kết sự suy tàn của cái đẹp với cặp mắt của bà già, đã “không còn xanh nữa”. Ở đoạn cuối, những liên kết thông thường và phản luận đề với màu xanh – nỗi đau đớn – xảy ra, nhắc chúng ta đến tính đối ngẫu của một thế giới không hoàn hảo, mà trong đó những cô gái đẹp đều nhanh chóng trở thành những bà già “mờ xỉn”.
Điểm Thọ dịch
(Còn nữa)

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here