Báo Thơ • Tháng 06 năm 2023 • Năm thứ 2 • Số 8 

0

PHẠM TĂNG, CÒN VÀI ĐIỀU MUỐN KỂ 

 MỐI CÁM DỖ LỚN LAO CỦA HƯ VÔ 

Vũ Trụ 

Tranh họa sỹ Phạm Tăng 

Tranh Brielle Do

Thơ • 2 

LỜI TÒA SOẠN ________________________________ 

Tôi mới nhận được tin: nhà phê bình Đặng Tiến (1940-2023) mất vào ngày 17 tháng 4 năm  2023, thọ 83 tuổi. Ông sinh tại xã Hòa Tiến, Đà Nẵng, tác phẩm của ông Vũ Trụ Thơ (Giao  Điểm 1972); Thơ, Thi Pháp và Chân Dung ((NXB Phụ Nữ , 2009). Trước đó là nhà thơ, dịch  giả Dương Tường (1932–2023) mất vào ngày 24 tháng 2 năm 2023, thọ 90 tuổi. Ông sinh tại  Nam Định. Ông đã tặng tôi 2 tác phẩm, vào năm 2008: Thơ Dương Tường Đàn, thơ Ngoài  Lời, bao gồm nhiều tranh vẽ. 

Một số nhân vật khác mà tôi cũng quen biết: nhà thơ Lê Đạt (1929–2008) mất vào ngày 21  tháng 4 năm 2008). Ông có tặng tôi tập thơ Ngó Lời (NXB Văn Học) vào tháng 8 năm 1997.  Năm 2008 tôi làm Tạp chí Thơ, có đứng ra xuất bản tác phẩm “Từ Tình Ephen”, vào năm 1998. 

Nhà lý luận phê bình Hoàng Ngọc Hiến (1930–2011), khi ông qua Little Saigon, tôi có gặp và  rồi giã từ, đưa ông lên phi trường về Việt nam. Tôi nhớ có tặng ông 2 cuốn sách Western Civi lization, Volume 1 và 2, tác giả Robert E. Lerner, Standish Meacham, Edward McNall Burns.  Ngoài anh Hoàng Ngọc Hiến, tôi còn giữ được cái thẻ do nhà văn Nguyên Ngọc đưa cho tôi. 

Khi còn ở Sàigòn, trước khi vượt biên, 3 nhân vật nổi tiếng ở miền Nam tôi quen biết là họa sỹ  Duy Thanh, Thái Tuấn và nhà thơ Thanh Tâm Tuyền (hai họa sỹ và một nhà thơ). Khi qua Mỹ,  làm Tạp chí Thơ, tôi lại có liên hệ với 3 nhân vật nổi tiếng miền Bắc, nhà nghiên cứu Hoàng  Ngọc Hiến, các nhà thơ Lê Đạt, Dương Tường (hai nhà thơ và một nhà nghiên cứu).  

Đặc biệt, tôi có mối liên hệ với nhà thơ Bùi Giáng, qua bài viết về ông, ông đọc trước khi mất,  và đã viết thư cảm ơn tôi. Với nhà văn & nhà thơ Mai Thảo, chủ trương tạp chí Sáng Tạo tại  miền Nam, và tạp chí Văn tại Little Sàigòn, đã đăng và xuất bản tập thơ “Thanh Xuân” của tôi.  Riêng nhà phê bình Đặng Tiến, sống ở Pháp, và khi qua little Sàigòn chơi, đã cùng tôi đi lang  thang ngoài hè phố. Ông là nhà phê bình duy nhất kết hợp những tác giả nổi tiếng giữa miền  Nam và miền Bắc, đặc biệt là những nhà thơ vần điệu như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng  Chương, Đinh Hùng … Ông cũng đã từng viết bài về thơ tự do, Tân hình Thức Việt, nhưng  không phải là là những dòng thơ quan trọng đối với ông. Còn một nhân vật khác, nhà văn  Nguyên Ngọc, tôi cũng từng quen biết. 

3 nhân vật nổi tiếng miền Bắc và 3 nhân vật ở miền Nam có phải tiêu biểu cho 3 miền Bắc  Trung Nam. Còn 3 nhân vật: 1 nhà thơ & nhà văn, chủ trương tạp chí văn học nổi tiếng ở Mỹ,  một nhà văn ở hà Nội, 1 nhà phê bình ở Pháp, có phải tiêu biểu cho đất nước Việt Nam? 

Cho đến bây giờ, tôi có mối liên hệ mật thiết với một nhà phê bình và 2 nhà nghiên cứu: nhà  phê bình Văn Giá, PGS.TS. Trần Hoài Anh, PGS. TS. Nguyễn Hữu Sơn. Thêm một đại biểu thơ  Tân hình thức Việt, nhà thơ Hồ Đăng Thanh Ngọc. Cũng vẫn là 3 và 1.

3 • Tân Hình Thức 

Tất cả đều do tình cờ. Tình cờ cũng là hình thái của thơ. 

Cuộc đời có nhiều sự may mắn, ngoài những nhân vật nổi tiếng Việt Nam, tôi còn quen biết với  nhiều nhà thơ Mỹ và thế giới, để rồi trở thành dịch giả thơ Mỹ Việt, với tác phẩm “Thơ Mỹ,  Một Thời Đáng Nhớ”. Chẳng khác gì những nhận vật đáng nhớ một thời của Việt Nam, vào  thập niên 1960s, cả miền Bắc lẫn miền Nam. Và cũng có cuộc đọc thơ do nhà thơ danh dự tiểu  bang California Dana Gioia tổ chức, kết hợp giữa hai nền văn hóa Mỹ Việt, vào ngày 20 tháng  11 năm 2016, cùng với nhà thơ Khế Iêm và nhạc sỹ Tina Huỳnh. 

Nhưng may mắn cũng đến từ khổ đau. Tôi làm Tạp chí Thơ, Báo Giấy, báo song ngữ Poetry  Journal In Print, báo Thơ, chỉ còn vài tháng nữa là đã 40 năm. Tất cả đều phải trả giá bằng cả  thể chất lẫn tinh thần, gây nên bao nhiêu những ghen ghét, đố kỵ. Điều đó cũng là chuyện bình  thường.

Trong Lời Tòa Soạn, số báo Tưởng Niệm Nhà Thơ Thanh Tâm Tuyền, tôi có trích lời nói của  Charles Jencks, “Quá khứ như một nửa giấc mơ được nhớ lại”. Điều này nhắc chúng ta nhớ, đã  có nhiều bài viết về thơ Thanh Tâm Tuyền, còn truyện ông viết cũng chỉ được nhắc tới như một  thông tin, chứ không giúp người đọc hiểu rõ được một số tiểu thuyết của ông, ngoài bài viết của  anh Phạm Kiều Tùng, “Mối Cám Dỗ Lớn lao của Hư Vô”. Bài viết này cũng như bài viết của  Thanh Tâm Tuyền, “Kinh Nghiệm Sáng Tác Trong Tù”, đã được đưa lên trang website www. 

thotanhinhthuc.org. Nhưng rồi trang website cũng mất đi, và bây giờ tôi đăng lại. 

Tổng cộng một số truyện của Thanh Tâm Tuyền: Bếp Lửa (Nguyễn Đình Vượng, Sàigòn,  1957); Ung Thư đăng trên Văn từ số 31 (ra ngày 1 tháng Tư năm 1965) đến số 62 (ra ngày 15  tháng Bảy năm 1966); Cát lầy (Giao Điểm, 1967); Mù Khơi (1970); Tiếng động (1970); Một  Chủ Nhật Khác (Văn, 1975). Khuôn Mặt (1964), Dọc Đường (1967); Tiếng Động (1970).

Trở về với hội họa, báo Thơ số 5, tháng 09 năm 2022, tôi có đăng một bức tranh trừu tượng  xuất sắc của họa sỹ Phạm Tăng (1924–2017), với trích đoạn từ Cục Mỹ Thuật, Nhiếp Ảnh và  Triển lãm, thuộc Bộ Văn Hóa. Nhưng vì không có bài viết đặc biệt nào về ông, nên không có  số đặc biệt tưởng niệm ông. Bây giờ, tôi mới nhận được bài viết Phan Ngọc Khuê về sỹ Phạm  Tăng, từ anh Phạm Hoán. Anh Phạm Hoán là người trình bày bìa cho Tạp chí Thơ, số ra mắt  vào mùa Thu 1994. Còn anh Phạm Kiều Tùng là một dịch giả, đã từng giúp tôi dịch nhiều bài  tiểu luận trên tờ Báo Giấy, và ngay cả một số tiểu luận trên Còn Đường Thơ Toàn Tập của tôi. 

Họa sỹ Phan Ngọc Khuê (1937 –) là nhà nghiên cứu với cuốn sách “Tranh Dân Gian Hàng  Trống Hà Nội”, 600 trang với 476 bức tranh được in kèm. “Gần 30 năm nghiên cứu, sưu tầm,  tôi mới viết ra cuốn sách này”, họa sỹ Phan Ngọc Khuê nói, “Trước khi cuốn sách được ra mắt,  tôi đã viết hàng trăm bài báo. Nhưng việc làm đó như muối bỏ biển. Vì ngay cả những họa sỹ,  người làm nghiên cứu cũng không phân biệt được tranh Hàng Trống khác tranh Đông Hồ và  những dòng tranh khác …” Theo An Như (Thể Thao & Văn Hoác), Dân Việt.
_____________________________________ 

Ghi chú 

* Bức tranh “Vũ Trụ” của họa sỹ Phạm Tăng được giải thưởng của tổ chức Unesco năm 1967.
Thơ • 4 

PHẠM TĂNG  

CÒN VÀI ĐIỀU MUỐN KỂ …
 _______________________________ 

Ai nào hiểu được nỗi lòng cho ai !  

pnk  

Với mấy người vẫn tới lui hoặc điện đàm, có lẽ anh Phạm Tăng chỉ còn hai hay ba đứa tụi  

tôi để có dịp giãi bày tâm sự cho vơi nỗi buồn lúc cuối đời. Bây giờ nói ra điều đó dễ bị  chụp cho cái thói thấy sang bắt quàng làm họ … bởi tụi tui hơi bị vô danh, vô giá nên chỉ muốn  ký bằng họ là Nguyễn, là Phạm, là Phan … còn tên thì xin miễn.  

Đau lòng là lúc anh vĩnh viễn ra đi, lũ chúng tôi, do tuổi tác với thân xác mỏi mòn, thời tiết  khắc nghiệt … nên không đứa nào tới được để đưa tiễn anh, chia buồn cùng chị và tang quyến!  

Sự thể anh ra đi là mang lại bao đau buồn, thương tiếc nơi những người thân … Nhưng xin  thành thực thú nhận là lũ tôi, khi trao đổi với nhau, đều có lời mừng cho anh! Xa lìa cõi tạm  này vào lúc này như vậy là anh đã thoát ra khỏi cái vòng ‘sinh diệt, hữu hạn chật hẹp’ mà anh  không ngớt bực bội than phiền cùng bạn bè xa gần …  

Tò mò, hỏi anh về nguồn gốc phương pháp tạo hình độc đáo đã làm anh nổi tiếng từ lúc sống ở  Rôma. Anh đáp: do học bổng nghèo nàn, nên phải tá túc ở trụ sở của giáo phận Phát Diệm và  Bùi Chu tại Rô-ma. Ở đấy anh thường đùa rỡn đối nghịch với tư tưởng, lý luận của mấy ‘ông  cha nhà thờ (linh mục công giáo) … để rồi có thói quen suy nghĩ sâu trước khi hành động. Và  từ đó nảy sinh phương pháp tạo hình khác người … nhái theo Hóa-công  

Nói đùa, nhưng mà là nói rất thật, rằng anh đã khám phá ra những mâu thuẫn tàn nhẫn hằng  có trong cõi sống chung quanh từ khi anh chập chững bước vào đời qua cánh cổng trường Cao  Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương … Rồi tới khi đã trưởng thành về mặt nghệ thuật, đã thành danh  ở thủ đô Rô-ma của nước Ý-đại-lợi, đã khảng định được con đường sáng tác của mình là con  đường sáng tạo tự do như của Thượng Đế, của ông Trời …! ‘ Tôi thường đùa với mấy ông linh  mục rằng tôi muốn bắt chước ông Trời khi ông ta sáng lập vũ trụ với muôn loài … theo như  sách ‘Genèse (sáng thế ký) …’  

Anh giải thích: ‘’Nghệ thuật hội họa của tôi là đường nét, là màu sắc do chúng tự sinh ra trong  tự do chứ không bị tạo thành trong gò bó, không bị sao chép theo những khuôn mẫu đã có, đã  thấy … Cứ như thế, tranh tôi sáng tác, không ép người xem phải cảm thấy, cảm nhận đúng theo  những gì tôi muốn … y như khi đứng trước thiên nhiên của tạo hóa, mọi người đều tự do cảm  xúc tùy theo mỗi nhỡn quan, mỗi trình độ … Người nhìn ngắm tranh của tôi được tự ý tham gia  vào sự sáng tạo của bức tranh … theo ý niệm, trình độ kiến thức và sức tưởng tượng của mình  …’’ 

5 • Tân Hình Thức 

Phạm Tăng phủ định: ‘’Những búc tranh tôi vẽ hồi ở trong nước không do tôi sáng tác, vì đó  chỉ là nhai lại những gì phương Tây đã nhả ra theo thầy này, thầy nọ, theo trường phái này,  trường phái nọ đã có, đã nổi danh, nghĩa là đã được công nhận như với những ‘’môn bài’’ đã  được cấp bởi phương Tây …! Những người đã sắp nghệ thuật hội họa của tôi theo một môn  phái, hoặc tự đặt cho tôi một môn phái mới … đều không hiểu thấu được ý niệm, tâm thức tự  do sáng tác của tôi. Tôi không hề mưu tính lập một môn phái nào, dù là nó là tiên tiến, hiện đại  hay hậu hiện đại … Một chiếc lá, một bông hoa trên cành, hay đã rụng xuống … thì đường nét  của chúng, màu sắc của chúng lúc đó là theo trường phái nào vậy ?!’’. Bởi thế tranh của tôi là  một tiến trình thai nghén, là engendrer, chứ không phải là tạo thành … như không biết trước  nó sẽ có những nét cong, đường thẳng như thế nào, những sắc mầu nguyên chất tinh khiết hay  cuốn quyện, pha lẫn, nhạt nhòa vào nhau như thế nào. Chúng không bị áp đặt đâu là trên, đâu  là dưới, đâu là đầu, đâu là đuôi … Chúng tự bùng phát, biến hóa ra theo một trình tự tự do như  tình cờ mà lại y như là theo một qui luật rất lô-gích, rất tuần hoàn … như do một sắp đặt khéo  léo của hóa công, của ông Trời. Hóa công ấy, ông Trời ấy là Tôi!’’  

Với đỉnh cao hội họa Phạm Tăng  

Giải thích tới đó, Phạm Tăng cười, cười lớn tiếng, cười hồn nhiên vui tươi như đứa trẻ đang  nô đùa thỏa thích. Đúng là lúc ấy, Phạm Tăng nói đùa, nhưng lại là lúc thực lòng nói thật suy  tư của anh!  

‘’Nghệ thuật hội họa khác người của tôi là do phương pháp tạo hình, tạo màu ngẫu hứng, dành  phần lớn cho một tự do tự tác thành theo hứng tung hoành của khối óc và bàn tay, không cân  lượng, không thời lượng … Tôi chỉ là kẻ đắp, dán để những mầu nguyên chất và vỏ trứng gối  chồng lên nhau…Đến khi các chất liệu ấy đã khô cứng, gắn kết chặt với nhau thì tôi dùng sự  chà sát của bàn tay, cứ mài mài … lúc nặng, lúc nhẹ, để những chất liệu vô tri ấy bỗng lộ diện  ra bởi một sinh lực huyền bí, màu nhiệm, hài hòa, mỹ thuật … mà chính tôi cũng không thể ngờ  kết cục là như vậy ! Tôi coi phương pháp đó là sự thai nghén ra tác phẩm, ra đứa con tinh thần  nghệ thuật của tôi. Uớc muốn của tôi là thử nắm bắt, lưu giữ lại một khoảng khắc nhỏ lúc ‘big  bang’(đại bùng nổ) … nhỏ tới mức không thể cân đo, đong đếm được, nghĩa là phi vật chất,  không giới hạn trong thời gian, không gian…với muôn hình, muôn màu của vũ trụ lúc sáng thế  (genese) … Đấy là một lát cắt của những hạt li ti vô cùng nhỏ (infiniment petit)…chúng sinh  thành trong cái vô hạn bao la (infiniment grand …)’’. Đấy là trò vui đùa của Hoá Công và của  … Tôi’’.  

Phạm Tăng thổ lộ trong đời anh có hai niềm vui thống khoái là hai mối tình tuyệt đối … nhưng  rồi cả hai đều đã tan vỡ đau đớn bởi ngoại tâm, ngoại cảnh, tức là không do anh quyết định …  nhưng chúng đã để lại trong tâm hồn anh một vết hằn, một cái sẹo cô đơn không thể nào xóa  đi hoặc an ủi xoa dịu … Đó là mối tình với hội họa và mối tình với người yêu đầu đời của anh.  ‘’ Tôi đến với hội họa như kẻ ăn xin, muốn học một nghề mà tôi thích để sinh nhai … như mọi  họa sĩ khác…chưa có gì là đáng kiêu hãnh, nghĩa vẽ để kiếm ăn, chứ chưa có được phong cách  sáng tác gì tiêu biểu để gọi là thành danh. Còn về thơ thì thật ra chỉ là thú vui vụng về riêng lẻ  để tự than thở với tôi mà thôi. Có người nói hội họa của tôi là bài thơ ca ngợi vũ trụ, còn thơ  của tôi thì lại là bức tranh đầy màu sắc … Đấy là họ đã quá khen. Bởi chán nản cuộc đời nên tôi  làm thơ … Bởi thất vọng cuộc đời nên tôi đã bẻ cọ, không vẽ nữa.  

Rất nhiều người muốn tìm hiểu tại sao Phạm Tăng, sau bức họa ‘vũ trụ’ có ký rõ niên biểu  1976, và rồi từ ấy anh không còn sáng tác nữa … thỉnh thoảng chỉ vẽ vài bức chân dung vì nể  tình mà thôi … 

Thơ • 6 

Tôi đã cố cật vấn trong những lúc tâm sự vụn với anh để tìm hiều tại sao anh không sáng tác  nữa. Thoạt đầu anh giải thích rằng với bức tranh mà người ta đặt tên là bức ‘vũ trụ’ … thì anh  coi như đã đạt tới đỉnh của phương pháp tạo hình ấy, nên không còn có thể sáng tác ra một tác  phẩm hay đẹp hơn thế. Tôi phản đối và không chấp nhận lối giải thích cái lý do khiến một họa  sĩ ngưng sáng tác … như vậy.  

Cho tới một hôm, khoảng cuối thu 1981, Linda Lê, một nhà văn nữ Việt kiều bắt đầu nổi tiếng  trên văn đàn Pháp với cuốn L’évangile du crime (Thánh kinh của tội ác), tìm đến xem tranh  của anh … Lúc đó anh còn đang ngụ tại căn hộ ở quận 13, Paris. Linda Lê đã mê tranh của anh,  đã tặng anh cuốn Solo (cô đơn) vừa mới xuất bản. Nàng như đã tìm thấy nơi anh một tâm hồn  đồng điệu trong nỗi cô đơn … Bởi nàng cũng đang sống trong day dứt sau khi phải bỏ nước ra  đi … Và anh đã cao hứng làm bài thơ ‘Solo’ để tặng người bạn trẻ mới quen mà đã trở thành tri  kỷ. Anh đã đọc bài thơ này cho tôi nghe và giải thích rằng quả thật hai tâm hồn, tuy cách nhau  về tuổi tác nhưng gần nhau vể tâm sự … Bài thơ kết thúc với hai câu:
Người buồn nhân thế thê lương
Kẻ đau đất nước đoạn trường như nhau.  

Nghe vậy, biết vậy, không mấy chú ý tới ở anh, nỗi ‘đau đất nước’ nó ‘đứt ruột’ tới mức nào.  Nhưng rồi sau, bà chị của ‘mối tình đầu’ sang Paris thăm anh, rồi mang một số bài thơ của  người em rể, về Hànội, lo xuất bản thành tập ‘Thơ Phạm Tăng’. Nhưng nhà xuất bản Văn Học  đã bỏ hai câu cuối trong bài thơ đó, nên anh bực mình giải thích: ‘Họ không hiểu nổi nỗi đau  đất nước đã khiến mình không còn hứng để mà sáng tác nữa …’ Đây là thứ nhì, Phạm Tăng cho  biết thêm một trong những nguyên do đã làm anh mất hứng sáng tác!  

Nhân đây, cũng xin nói thêm một chi tiết về tập thơ Phạm Tăng, để hiểu rõ hơn về tính cao kiêu  vời vợi của anh. Trong bài ‘Rỡn Trời’ ở trang 77, có một câu đã bị sửa khi xuất bản tại Hànội,  khiến anh bực mình. Vì lời sửa đã làm mất hết ý nghĩa tư duy đùa nghịch vô thần của Phạm  Tăng. Lời sửa là:  

‘Đạo này, thuyết nọ, không’ qua lỗ mồm
Nguyên bản là :
Chữ Lời dệt gấm thêu hoa
Nho, Công, Thích, Mác chẳng qua lỗ mồm  

Anh giải thích chữ ‘Lời’ viết hoa là dịch từ Le Verbe của sách Sáng Thế Ký (Genese) của Do  Thái giáo và Thiên Chúa giáo … Có cuộc tranh cãi rằng sách này cũng chỉ là do con người (lỗ  mồm) nói ra mà thôi … tức là ông Trời cũng chỉ là do con người bày ra khi đặt tên kẻ tạo ra  vũ trụ là ông Trời … Sách ấy nói rõ khi người trông thấy con gì,vật gì thì đặt tên cho nó là con  ấy,vật ấy … Đây là lập luận đùa nghịch khích bác nhái lại mấy linh mục, bạn anh ở Rô-ma …  Tức là Nho giáo, Công giáo, Phật giáo, Cộng sản (Mác-xít giáo) cũng chỉ là trò bày đặt của  con người … Thế nên buồn đời anh làm thơ trách giỡn trời là Mây cứ y cũng có lúc buồn muốn  khóc ..: 

7 • Tân Hình Thức 

Mỗi khi vướng núi, Mây (viết hoa) buồn lại mưa!  

Càng về sau, anh càng cho biết thêm tâm trạng hụt hẫng của anh sau biến cố 30 tháng Tư năm  1975. Bởi sau ngày ấy, có tin gia đình anh ở VN gặp đủ thứ khó khăn, nên nài nỉ anh phải làm  sao vận động đưa cả nhà gồm anh em và bố mẹ ra sống ở nước ngoài. Lúc ấy, anh còn đang  sống tại Rô-ma, danh tiếng đang vang dậy, lại thêm bà vợ người Ý thuộc gia đình vọng tộc, nên  anh đã nhờ bộ ngoại giao Ý can thiệp hữu hiệu để đưa cả gia đình sang Ý, rồi sang Mỹ … Đây  là điều có thể là đáng mừng, nhưng với Phạm Tăng thì đấy là một nỗi đau khôn nguôi, vì hòa  bình đã tới quá thê thảm với đất nước làm anh vỡ mộng phũ phàng!  

Ít ai hiểu được lòng yêu nước, thương dân của Phạm Tăng nó nặng tình nghĩa đến mức nào. Với  ai, dù thân hay sơ giao, anh cũng thường khoe gốc gác thuộc về hai nhà nho tiết tháo của vùng  đất Yên Mô, Ninh Bình là cụ Phạm Bành, với cuộc khởi nghĩa Ba Đình, sau bị Pháp bắt, cụ đã  tự vẫn trong tù. Còn cụ Phạm Thận Duật thì cũng vì kháng Pháp nên bị đưa đi đày … nhưng cụ  chết trên tàu … và bị thủy táng, nhưng anh tin là cụ đã tuẫn tiết trên đường lưu đày … Riêng anh,  thì lúc còn niên thiếu, cũng từ bị cò Arnault tát tai và giam tại bót Hàng Trống, ven Hồ Gươm  … Thật sự là anh Phạm Tăng có một mối thâm thù với thực dân Pháp, do vậy mà anh từ chối  không muốn bạn bè tổ chức cho anh một cuộc triển lãm tại Paris … Đó cũng là thêm một lý do  khiến anh không thể sống vui ở đất Pháp. Anh thú nhận cuộc đời anh là một chuỗi mâu thuẫn  bất hạnh … do tính cao ngạo của anh trước những nghịch cảnh đau đớn …  

Nhớ lại lúc đang cao hứng vẽ tranh cổ động tham gia kháng chiến ở vùng Nam Định thì được  anh Lưu Quyên, một người bạn anh rất mến phục vì tính tình ngay thẳng … đã nhắn tin ‘đảng’  đang bắt đầu phát động phong trào chỉnh phong, loại bỏ thành phần tiểu tư sản ra khỏi hàng  ngũ kháng chiến … và khuyên anh nên ‘dinh tê’ vào Hànội y như mấy văn nghệ sĩ ‘tạch tạch sè’  (tiểu tư sản) khác. Lại thêm lòng oán giận trường hợp không dám dùng thuốc cao cấp để cứu  mạng sống của một đứa em (do chính bs Nguyễn Danh Đàn thổ lộ) … Nên anh quyết định dinh  tê theo ngả Phát Diệm … nơi anh làm quen với mấy linh mục công giáo … (để sau này lại có dịp  gặp và sống với mấy tu sĩ ấy tại ở Rôma …) Rồi sau đó là gặp gỡ mối tình đầu lí tưởng và người  yêu sau cũng bỏ gia đình theo anh di cư vào Nam năm 1954. Tại Sàigòn, mối tình đầu ấy đã tan  vỡ rất đau đớn vì cái tính đam mê bướng bỉnh của anh. Đấy là lần vỡ mộng lớn nhất đời anh.  

Vào Sàigon, do bạn bè lôi kéo, anh làm việc cho một hãng dầu lửa với lương cao và gia nhập  nhóm làm tờ nhật báo Tự Do với nhà thơ Hà Thượng Nhân, nhà văn Nguyễn Hoạt, nhà báo  Như Phong … Lúc đó anh vừa có danh, vừa có tiền … Anh nổi tiếng nhờ mấy bức hí họa rất  sâu sắc … được độc giả bình bàn vui vẻ. Tôi nhớ rất rõ vài bức hí họa đó, như bức vể lãnh tụ cs  Hung-gia-lợi Imré Nagy bị thòng lọng treo cổ dưới cái lưỡi liềm, khi Hồng quân Xô-viết tràn  vào Budapest để đàn áp cuộc nổi dậy … Một bức khác rất khôi hài là cảnh một bộ đội cs đội  nón cối gầy ốm tong teo, đu bám dưới tàu lá đu đủ mà lá không gãy…Bức thứ ba thì thật là có  ý nghĩa mỉa mai hết cỡ chế độ cs với ba bức tranh cùng một cảnh ngộ, cùng một câu hỏi ‘Tại  sao anh bị giam ở đây?’ : người bị nhốt đáp : ‘Tại tôi chống Cao Cuơng!’. Bức thứ hai thì lời  đáp là: ‘Tại tôi ủng hộ Cao Cương!’; lời đáp ở bức thứ ba là: ‘Tại tôi là Cao Cương! Ghi chú:  Cao Cương là nhà bất đồng chính kiến với đảng cs Tàu …!  

Lúc cuối trào tổng thống Ngô Đình Diệm, tờ Tự Do bị coi là có xu hướng chống đối, nên bị cải  tổ, và có vài người bị tạm giam để điều tra, trong đó có Phạm Tăng … Sau tất cả bị đưa ra tòa  và anh được trắng án. Có tin là tại anh là tác già bức hí họa số báo xuân với quả dưa hấu bị ba 

Thơ • 8 

con chuột đang đục khoét … mà lật ngược bức tranh là thấy rõ có hình nước Việt, chữ S. Thực ra  anh không phải là tác giả bức hí họa ấy. Nhưng bạn bè và anh thấy vẫn bị theo dõi. Nhân có học  bổng cho sang Ý để quan sát về hội họa Ý. Bạn bè đẩy anh đi. Học bổng ấy chỉ cấp từng năm,  nhưng anh không muốn về … nên cứ mỗi năm lại phải ghi tên để xin học thêm một môn khác …  Lần lượt anh học về trang trí kiến trúc, trang trí nội thất, vẽ hình mẫu dụng cụ, vẽ thời trang …  phảng phất nét trang trí …  

Nhưng anh không ưa những phương pháp vẽ hàn lâm máy móc ấy. Anh cố suy nghĩ tìm tòi để  có được một phương pháp tạo hình mới mẻ, và anh đã tìm thấy nó khi thử kết hợp hai phương  pháp sơn dầu của phương Tây với phương pháp sơn mài của ta … Anh đã say mê phương pháp  tạo hình mới mẻ ấy. Những bức tranh không đề, không khung, không đầu, không đuôi ấy đã  được giới hội họa Ý đón nhận nồng nhiệt với những lời ca ngợi của những nhà phê bình có uy  thế nhất tại Ý và trên thế giới. Vẽ xong bức nào là có tay tài phiệt Ý tới thỉnh đi ngay. Anh bắt  đầu thử tài với những cuộc triển lãm ở Bỉ, ở Brazil, ở California, ở New York … Có lần anh  chỉ được cho triển lãm ké với một họa sĩ nổi danh khác, nhưng rồi báo chí chỉ nói về mấy bức  tranh của anh mà quên hẳn vị họa sĩ nổi danh kia. Rõ ràng là anh đang trên đường thành công,  thành danh vang dậy …  

Nhưng sau thì bỗng nhiên anh đã rời bỏ tất cả, bỏ vẽ, bỏ nước Ý ra đi … Tại sao?  

Anh đang sống trong một thứ lâu đài huy hoàng của gia đình bà vợ Ý, ngay giữa thủ đô Rô-ma.  Anh đang hăng say sang tác. Nhưng có lẽ ông Trời đã ghen tức với anh? Bỗng bà vợ qua đời  vì bệnh nan y. Đứa con gái duy nhất của anh cũng bị khủng hoảng tâm thần nặng. Rồi lại xảy  tới ngày Sàigòn thất thủ … gia đình anh ở quê nhà kêu cứu … Hai biến cố động trời ấy đã đốn  ngã tính kiêu hãnh của anh. Anh cảm thấy danh vọng tiếng tăm của anh chỉ là thứ phù du …  anh không còn muốn gặp gỡ ai nữa. Chung quanh anh chỉ toàn là xa lạ … Thiên hạ muốn khai  thác anh, chứ không chút thân tình. Muốn có một bạn tri âm để tâm sự cũng không có. Để giải  khuây, anh qua Paris, nơi anh gặp nhiều bạn bè Việt. Anh tìm thấy ở đây một sự đầm ấm, thận  cận y như ở quê nhà … Và anh quyết định rời bỏ Rô-ma!  

Ở Paris, anh tìm thấy một thú vui rất bình dân của dân Paris: thú đánh cá ngựa, rất hợp với đam  mê đỏ đen của anh. Ở Paris có hàng chục tờ báo chuyên bình bàn về các độ cá ngựa diễn ra  hằng ngày trên lãnh thổ Pháp. Nghiên cứu về các độ cá ngựa là cả một thứ tìm tòi thông minh  nên nó giúp anh quên mọi nỗi u buốn ám ảnh…và rồi anh trúng lớn …! Anh mua nhà ở quận  13, ngay giữa hang ổ của Việt kiều. Tại đó, từ đó bạn bè đến với anh nhiều vô kể. Những bạn  cố tri ở trong nước mỗi lần qua Paris đều tới ở nhà anh. Tại đây, tôi đã gặp các văn, thơ, nghệ  sĩ nổi danh như Huy Cận, Xuân Diệu, Hữu Ngọc, Phan Kế An …  

Nhưng rồi cá ngựa đã từ từ phản anh, lấy lại những gì anh đã được … Lúc này ở quê nhà đã  bước vào thời ‘đổi mới’, văn nghệ sĩ trong nước nay có tiền rủng rỉnh, sang Paris họ ở khách  sạn, ít còn tới anh … Khi anh lập gia đình và dọn về khu ngoại ô Bonneuil thì bạn bè lại càng  thưa đi nhiều.  

Buồn tình đời anh chỉ còn thú vui cá ngựa, lai rai làm thơ và hút thuốc lào … cũng may là vào  buổi chiều của cuộc đời anh may mắn có được bà vợ đài các đảm đang chăm sóc anh … trong  khung cảnh gia đình nhung lụa đầm ấm. Nhưng rồi chung số phận của mọi tuổi già, anh chị và 

9 • Tân Hình Thức 

anh phải vào sống tại bệnh viện lão khoa Charles Foix. Rồi anh lặng lẽ ra đi … và tro tàn đành  tạm gửi lại quê người.  

Tôi nói tro cốt của anh tạm nằm lại quê người, vì tôi biết rõ chính anh đã mưu tính về sống vĩnh  viễn tại nơi đất quê cha Yên Mô, nơi anh đã chỉ cho tôi thấy rõ trong ảnh, căn nhà họ tộc của  anh nay chỉ còn lại cái nền gạch trơ trọi.  

Năm 1994, sau khi về thăm lại thôn cũ, vườn xưa, anh đã vui mừng khoe với tôi rằng khi tới  thăm chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình, ông này đã hứa sẽ giúp đỡ, nếu anh muốn, thì sẽ dành  một căn nhà cho anh làm nơi lưu niệm một số tranh tiêu biểu của hội họa Phạm Tăng, đứa con  danh tiếng quốc tế của đất Ninh Bình.  

Sau đó về lại Paris, anh hăng hái chuẩn bị một hồ sơ về hội họa Phạm Tăng mà trọng tâm là bức  danh họa ‘vũ trụ’ cùng một album video ghi lại hầu hết các bức tranh hiện đang do mấy tài phiệt  Ý lưu giữ ở Rôma. Album video này sẽ do anh Huỳnh Tâm và tôi qua Ý cùng anh để ghi hình  … Anh còn có dự tính sẽ chuộc lại vài bức để cùng mang về nhà lưu niệm ở Ninh Binh. Trong  khi chờ đợi đi Ý, anh Huỳnh Tâm và tôi đã ghi hình những gì anh đang giữ ở Bonneuil … để  hoàn thành nòng cốt cho cuốn Album sẽ xuất bản trên giấy, cùng với một đĩa video.  

Rồi anh đã trở về thăm quê hương một lần nữa và là lần chót. Sau đó trở lại Paris, anh buồn  bực báo cho tụi tôi biết, anh đã bỏ ý định lập nhà lưu niệm hội họa Phạm Tăng tại Ninh Bình.  Trước thắc mắc của tụi tôi, anh kể: lần này về gặp lại chính quyền, thì chủ tịch UBND tỉnh là  một người khác. Khi gặp, anh có nhắc tới dự án lập nhà lưu niệm … thì ông chủ tịch nói rất  cửa quyền nguyên văn như sau: ‘’Việc ấy chưa gấp, cứ thủng thẳng rồi ta tính. Xin lỗi anh vì  hôm nay công việc rất bề bộn, nên tôi chỉ có thể tiếp anh trong mươi phút thôi!’’. Anh Phạm  Tăng cụt hứng đành chào và cám ơn xã giao ông chủ tịch vì đã dành thời giờ quí báu để tiếp  anh. Sau đó về Hànội, kể lại cuộc gặp gỡ kia, thì anh em văn nghệ sĩ khuyên anh nên bỏ ý định  mang tranh về tặng tỉnh Ninh Bình, vì bây giờ người ta chỉ lo tính tìm cách đẻ ra công việc để  làm ra tiền thôi …  

Theo tôi thì tỉnh Ninh Bình đã bỏ lỡ cơ hội để được lãnh nhận bức danh họa Vũ trụ’. Vì đấy là  một tác phẩm kiệt tác, một đời đại họa sĩ chưa chắc có thể thực hiện được một tác phẩm như  thế. Các nhà phê bình hội họa thế giới đã ca ngợi nó như một đỉnh cao của nghệ thuật hội họa.  Nó sẽ là cái đinh của một viện bảo tàng quốc gia y như bức La Joconde đối với viện bảo tàng  Le Louvre của nước Pháp …  

Kể thêm về anh Phạm Tăng như vậy, tôi nghĩ đây không còn là chuyện riêng tư. Vì đây là một  vấn đề liên quan tới một kiệt tác xứng đáng được coi như một di sản của quốc gia (patrimoine).  P.

Thơ • 10 

MỐI CÁM DỖ LỚN LAO CỦA HƯ VÔ
 _____________________________________   

 Phạm Kiều Tùng 

Tất cả những chữ in nghiêng đậm là trích từ những tác phẩm của Thanh Tâm Tuyền. 

Ung Thư, tác phẩm chưa hoàn tất của Thanh Tâm Tuyền, đăng trên báo Văn từ số 31 tới số 62,  chưa in thành sách. Bên cạnh Chú thích số 12 có ghi V39/87-UT 95: là đoạn dẫn này trích từ  báo Văn số 39, trang 87; tức trang 95 trên tổng số 302 trang Ung Thư đăng trên báo Văn. Nếu  người đọc merge tất cả các trang Ung Thư trên báo Văn theo thứ tự thành một file pdf duy nhất,  thì việc định vị những trích dẫn sẽ dễ dàng, nhanh chóng hơn là tìm kiếm trên từng số báo Văn. 

Của Thanh Tâm Tuyền, ba cuốn truyện Bếp Lửa, Ung Thư Cát Lầy là một trilogy với chủ  đề là vực thẳm Hư Vô mà những nhân vật chính của ông bị cuốn vào. Khung thời gian của Bếp  Lửa Ung Thư là khoảng một thập niên trước hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam, của  Cát Lầy là khoảng một thập niên sau 1954. Không gian của Bếp Lửa: miền Bắc Việt Nam, chủ  yếu là thành phố Hà Nội; của Ung Thư, là cả hai miền, nhưng chỉ tập trung vào hai thành phố  Hà Nội và Saigon; của Cát Lầy là miền Nam, chủ yếu là thành phố Saigon và phụ cận như châu  thành Thủ Dầu Một.  

Nhân vật chính của Bếp Lửa Tâm, xưng “tôi” trong truyện. Thanh Tâm Tuyền: “Trong nhân  vật có thể có những mảnh của tác giả nhưng không bao giờ là tác giả hết … trong ấy (trong  Bếp Lửa) tôi cho nhân vật mượn cả tên tục tôi (Tâm) và nhiều hoàn cảnh tôi đã sống” [1]. 

Nhân vật chính của Ung Thư là những Đồng, An, Thạch, Cảnh, những thanh niên trí thức mang  nặng những khắc khoải, dằn vặt về thời cuộc, chính trị. Có nhiều “mảnh của tác giả” cũng như  “của bè bạn tác giả” trong những nhân vật này. 

Nhân vật chính của Cát Lầy Trí; cha của Trí nổi điên, một đêm trong giờ giới nghiêm, ông  phá cửa, chạy ra sông nhảy lội về phía đồn Tây. Súng trên bốt bắn xuống. Đầu ông nổi dập  dình trong vùng đèn pha sáng quắc lờ đờ … Xác hai ba bữa sau, nước rút trôi táp vào con  lạch sau nhà [2]. Trong đời thực, thân sinh của tác giả Cát Lầy qua đời vì chết đuối. 

Văn chương không phải là tự truyện, nhưng luôn thấp thoáng bóng dáng của tác giả trong  những nhân vật mà tác giả tạo dựng. Văn chương là loại hư cấu mà Saul Bellow gọi là tự truyện  ở đẳng cấp cao hơn [3]. Theo Edna O’Brien, Bất kì một cuốn sách có chút giá trị nào, thì trong  một chừng mực nào đó, phải có phần là tự truyện [4]. Đỗ Long Vân: Cái hay … không thể có  ngoài cái thực [5].  

Có một cơn gió thổi suốt gần 200 trang cuốn Đôi Bạn của Nhất Linh: đó là cơn gió của sự thay  đổi, đến từ Phương Tây, mang lại những ý niệm về cá nhân, tự do, dân chủ … thổi vào dải đất  hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương vốn ngưng đọng cả ngàn năm trong quan điểm lễ giáo, gia  trưởng Phương Đông. 

11 • Tân Hình Thức 

Tới Thanh Tâm Tuyền, trong Bếp Lửa và rõ nét là trong Ung Thư, Cát Lầy, cơn gió đã biến  thành cơn lốc: cơn lốc của chủ nghĩa hư vô. Trong bài Tưa bản in Bếp Lửa lần thứ hai, Thanh  Tâm Tuyền thẳng thắn nói về chính mình: Hắn (Thanh Tâm Tuyền) lớn lên cùng bè bạn, vượt  qua mau tuổi trẻ để suy nghĩ và mơ ước hành động. Mỗi đứa một lối lăn mình theo mối cám  dỗ lớn lao của hư vô. Hắn lìa bỏ quê hương, chia tay với bè bạn, dấn mình vào lịch sử, đuổi  theo giấc phiêu lưu của trí tuệ: sự thật được tạo nên từ niềm hư vô của tuổi trẻ bị tước đoạt [6].  

Sau hai cuộc thế chiến và phát xít và cộng sản thì cám dỗ của hư vô là có tính toàn cầu. Thế kỉ  20 được ghi nhận là “thế kỉ gây chết chóc nhất trong lịch sử loài người … từ tháng tám 1914  tới tháng năm 1945, khoảng 70 triệu người đã chết trong chiến tranh, trong trại tù, chết do tra  tấn, đầy ải, đói ăn … khoảng 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa Stalin”[7].  

Jean Améry viết rằng “tra tấn là bản chất là cốt lõi của Đệ Tam Đức quốc xã. … Với một tay  quốc xã Đức chuyên tra tấn người thì chỉ cần hơi mạnh tay điều khiển “dụng cụ” là đủ để nạn  nhân gào ré như heo con khi bị đưa vào lò mổ – dù có thể trong đầu nạn nhân tàng trữ những  Kant, những Hegel, cùng toàn bộ 9 bản giao hưởng của Beethoven, với Schopenhauer toàn tập  The World as Will and Representation”[8]. Rất cần nhớ rằng chính những tên quốc xã đã được  giáo dục để trong đầu chúng cũng tàng trữ những thứ như vậy. “Những thư viện, những viện  bảo tàng, những rạp hát, những đại học vẫn có thể phát triển rất tốt dưới bóng che của những  trại tập trung. Giờ thì chúng ta hiểu: văn hoá không sản sinh ra tính người (không khiến cho  con người trở thành người hơn)”[9]. “Những gì tôi từng tin tưởng thì nay không còn tồn tại nữa.  Cuối cùng thì văn minh phương Tây đã bị thiêu rụi thành khói trong những ống thoát khói [của  những lò thiêu xác người] ở Dachau” [10]. 

 Chúng nó làm phát xít
Chúng nó làm cộng sản
Chúng ta làm tù nhân [11] 

Sự thật được tạo nên từ niềm hư vô của tuổi trẻ bị tước đoạt: bị tước đoạt, bởi những thanh  niên đó phải dành trọn cái sinh lực trẻ trung cho những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc – là  số phận nghiệt ngã của người dân nước nhược tiểu trong gọng kìm Tư bản-Cộng sản. Như với  Thạch, việc đọc sách để thu thập kiến giải vạch đường cho lí tưởng noi theo thì cấp thiết, quan  trọng hơn việc học lấy bằng cấp, Hồi Cảnh truyền cho Thạch hai quyển gối đầu giường của  mình là Principes fondamentaux de la philosophie và Principes élémentaires de l’économie  politique, Thạch bỏ cả gần năm học không để ý đến thi cử để nghiền ngẫm Marx [12].  Cảnh ở nhờ trong chùa, hằng ngày đi tàu điện, lên phố vào thư viện tự học, buổi trưa ăn  bánh mì trong nhà gửi xe, chiều làm précepteur một hai tiếng cho một gia đình ở hàng Bạc,  trong hai năm xong Tú-tài [13]. Cảnh nói: Muốn làm nên việc gì, không thể đơn thân, phải  có anh em; tôi sống được ở Hà nội, đi học được khỏi lo lắng một phần là nhờ sự giúp đỡ  của một số anh em khác, họ đi dạy học, gửi tiền hàng tháng trợ cấp cho tôi; chúng tôi luân  phiên nhau, tôi học xong đến lượt người khác [14]. Cảnh nói với Trinh: Không ai yêu tôi và  tôi cũng chẳng yêu ai hết [15]. 

Thạch và chúng bạn chuyện trò bàn cãi hết vấn đề này sang vấn đề khác trên những hè  phố vắng như những ngày dài đằng đẵng, chia nhau những điếu thuốc lá [16]… mỗi khuya  vắng từ biệt nhau mỗi đứa một ngả thui thủi gậm nhấm những mẩu mộng ước cay đắng, 

Thơ • 12 

trong khi người ta làm chợ đen, áp-phe, lo kiếm tiền làm giàu, chuyển ngân, tìm chốn thoát  thân [17]. Phía sau lưng bàn tán chuyện động viên, các tuy-ô chạy chọt, ông bác sĩ phụ trách  khám sức khỏe có hàng hộp vàng gửi ở ngân hàng [18].  

Trong Bếp Lửa, những mảnh đời, những phận người, những ngày tháng tan rã báo hiệu những  hẹn ước với hư vô: Ngọc xuống Hải Phòng, làm phu khuân vác bến Sáu Kho, chờ đợi một  chuyến đi xa, đi không trở về cái đất nước nhục nhã này, đi tìm cái chết nơi hải cảng trong  quán rượu xa lạ, chết một mình bên chai rượu [19]; Ông Chính là cha ghẻ của tôi [20]…  đã già xuống nhiều, bàn tay ông úp sấp nổi gân và run. Năm 45, ông là đảng viên Việt Nam  Quốc dân Đảng và có dự vào cuộc tương tàn lịch sử [21]… Tôi thương ông vô cùng, sự già  cả và cô đơn vây lấy ông [22] Bảo (một bạn thân khác) “… tôi sợ cái chuỗi ngày thường của  tôi …, có phải mình đang kiên nhẫn chịu đựng hay mình đang chết đi? … cái cuộc đời bên  cái hàng tạp hoá và vợ con này của tôi.” Tôi không trả lời, gác một chân ra ngoài chăn. Bảo  đã dự trong phong trào Ngũ Xã [23]. Anh bị hư một chân, khi trải qua nhà tù Pháp và Việt  Minh [24]; (Đại) Hắn rất say đắm chủ nghĩa cộng sản [25], nói với tôi: “Tôi đã bắt được liên  lạc [để bỏ Hà nội ra hậu phương]. Chỗ đến là Phú Thọ [26].” Tôi nói thẳng với Đại: Bỏ ra  ngoài (ra hậu phương) cũng là một lối đánh đĩ, đánh đĩ tinh thần mình [27]; Hạnh, (thuở nhỏ  nhân vật “tôi” và Hạnh học cùng trường, giờ, hai người tình cờ gặp lại nhau) Tôi cùng về Hà  nội với Hạnh vài lần. Những ngày ấy tôi dành riêng cho mình Hạnh. Gần nhau, tôi nhận  thấy chiến tranh – hay chỉ cần sự đe dọa của chiến tranh, tổng quát là sự khủng bố tinh  thần – đã thổi vào máu Hạnh sự say đắm nhiệt tình trong yêu đương (khi “ngày mai ngày  mai bơ vơ như đứa trẻ trong cơn oanh tạc” [28], không bây giờ thì bao giờ?). Sau mỗi lần  như thế, khi lấy lại bình thường. Hạnh có vẻ ngượng ngùng. Một lần nằm cạnh tôi, Hạnh  nắm tay tôi để lên ngực nàng và hỏi: “Anh có khinh em không?” Lúc ấy tôi đau đớn tất cả  thân thể. [29] (sau đó thì biết tin là Hạnh không trở về nữa). Chị Mùi nói: “Cô ấy ra ngoài  đến nửa tháng nay không thấy về.” Tôi hỏi chị: “Có tin tức gì không chị?” “Có lẽ bị giữ lại.  Người ta nghi cô ấy…” [30]  

Mấy giòng cuối trang trước ba trang chót của Bếp Lửa: nhân vật xưng tôi xuống Hải Phòng  thăm Ngọc, nhưng Ngọc đã xuống tàu rời bỏ quê hương: Tôi về trải chiếu trên căn góc ọp ẹp  Ngọc đã ở. Hắn đi thật rồi, như ông Chính chết, như Đại đã đi. Không muỗi nhưng hơi lạnh  về giữa đêm. Tôi mê gặp Hạnh và tỉnh giấc. Tôi không nhớ mình đang nằm ở đâu, mình đến  đây làm gì. Chưa bao giờ tôi cảm nỗi tuyệt vọng ghê gớm đến như thế. Tôi có thể tự tử được.  Nhưng tôi tự nhủ: Cũng thế thôi, phải, cũng thế thôi [31]. 

Nội dung của Bếp Lửa không hề hứa hẹn cảnh đoàn tụ quanh một bếp hồng. Chỉ có li tán, và  những hứa hẹn của li tán – hứa hẹn từ Bếp Lửa 1957 tới gần nửa thế kỉ sau đó, khi Thanh Tâm  Tuyền ra khỏi tù cải tạo gặp Nguyễn Sĩ Tế cũng đã qua cải tạo, trong bài thơ mừng gặp lại bạn,  đã gọi thời của ông và bạn hữu là thời Li Tán: Trùng phùng mấy lúc Thời Li Tán / Quyến  luyến phù vân lời phiếm trao. Ba trang chót của Bếp Lửa 110, 111 & 112 (ấn bản chung quyết  1973, in lần thứ tư), trang 110 chưa tới nửa trang, trang cuối 112 chỉ vài giòng, và bát chữ trang  nhỏ, in thưa, thực sự chỉ như một trang. Nội dung “trang” đó: Nhân vật xưng tôi – đã di cư  vào Nam sau hiệp định Genève 1954, còn nhân vật nữ Thanh ở lại Hà Nội – viết trong thư gửi  Thanh: “Hãy cho anh sự tin tưởng khi anh có dịp trở về quê hương …”. [32] Cả cuốn truyện  chỉ toàn những li tán trên nền của những lộng đổ nát; và chỉ một trang mơ ngày đoàn tụ: tôi  bảo lưu ý kiến rằng tựa truyện “Bếp Lửa” là một tựa không thích hợp – mặc dù lí giải hết sức  thuyết phục và không thể súc tích hơn, của dịch giả Nguyễn Hải Bằng qua email: Tôi nhớ câu 

13 • Tân Hình Thức 

thơ của Tô Thùy Yên “Bếp lửa nhân quần ấm tối nay “. Nhưng trong Bếp Lửa của Thanh Tâm  Tuyền chỉ toàn chuyện li tán như ông nhận định. Bếp Lửa mơ ước với thực tại định mệnh đối  nghịch. Một absurdité của thời đại và cả của cuộc đời. Phải chăng có lẽ đó là chủ ý của tác  giả muốn nói lên? 

Tới Ung Thư: Những nhân vật Đồng, An, Thạch, Cảnh đã “lăn mình theo mối cám dỗ lớn lao  của hư vô” như thế nào?  

Đồng: bệnh nặng, phải bỏ học, tự nhận biết mình sẽ sớm rời bỏ cuộc đời, chỉ thể đứng ngoài  nhìn bạn bè “dấn mình vào lịch sử”, Đồng làm thơ, rồi thả trôi những trang thơ xuống giòng  sông Hồng, giòng nước đỏ phù sa chảy siết cuốn trôi tập giấy viết những bài thơ tình đầu tiên  nhưng không cuốn nổi những âm vang còn lại trong hồn [33]. Đồng hay pha trò ý nhị, hay  cười khúc khích riễu cợt, Nga (em gái An – thêm một mối tình không thành của Đồng): “Anh  không được cười nữa … Em muốn thấy anh buồn”. Muốn thấy anh buồn làm sao được, [34]  muốn thấy phải vào trong đêm khuya trằn trọc, vào trong những cảm xúc bất thường, trong  cơ thể bệnh hoạn, trong ý thức vùng vẫy, tiềm thức vi phân… Tự dưng tôi ứa nước mắt … 

[35]. Này chàng thơ bệnh hoạn, những giọt lệ chính là những ý thơ, tứ thơ chờ được, đòi được  viết ra, nhưng chàng nhất định không viết ra nữa: Lẩn quất ở ngoài hay ở trong những vang  vọng quen của những câu thơ muốn thành hình, nhưng tôi nhất định không viết, và chỉ  chốc lát sẽ tan hút vào đáy sâu của bản thể và bản thể sẽ tiêu mòn cùng ngày tháng [36]. Bởi  hư vô lên tiếng gọi chàng và chàng thầm nhắc câu hỏi của Hölderlin “À quoi bon des poètes  en temps de détresse?” Có ích gì, những thi sĩ trong thời buổi khốn cùng? [37]… Tôi sẽ sụp  vào trong hố thẳm hư vô [38] cuộc sống đang rút dần khỏi cơ thể, óc não [39]. Tôi quên dần  căn bệnh … tôi quên dần tôi. Tôi di chuyển nhẹ nhàng thoải mái trong cái thế giới thu nhỏ,  thu nhỏ mãi để sẽ biến mất thảnh thơi. Biến mất cùng những giấc mộng tuổi niên thiếu.  Một ngày nào, bạn bè trở về không gặp, chúng nói với nhau: Đồng chết rồi, nó chết như thế  nào? Thạch cười sặc, tiếng cười vẫn cay độc không thay đổi: Nó chết vẫn còn là trai tân.  Hai mươi ba tuổi chết vẫn còn tân. Ça c’est ridicule. Mẹc. Sà lù. Bú dù. Con khẹc [40]. A.  Porchia: Con người sống với hi vọng sẽ trở thành niềm nhớ tưởng (của nhiều người khác) [41]  Còn Đồng nhất định không viết”, chỉ muốn được quên đi, tan chìm trong hư vô.  

 An: gia đình tư sản, trưởng giả, ông bố làm bộ trưởng, đã lo liệu cho An đi du học Pháp nhưng  An từ chối. An theo đuổi văn chương, bỏ nhà, sống với gái làm tiền đồng thời là gái nhảy tên  Phúc. Khi bỏ nhà ra đi, An không đem theo một quyển sách nào Những quyển sách như  môi giới của thế giới khác, trở nên vô dụng, chính tôi tôi đi đến những thế giới ấy và có thể  tôi sẽ tạo nên những quyển sách của tôi [42]. Cuối cùng An nghiện ngập, nhưng rút ra một  kinh nghiệm “đau đớn nhất”: Tôi chưa gặp Đồng, nhưng có lẽ rồi sẽ gặp, nói với hắn một  kinh nghiệm, kinh nghiệm đau đớn nhất: văn chương chính là một hư tưởng bao phủ đời  sống, là nỗi bất lực thú nhận và chấp nhận của một kiếp người…(trang áp chót của Ung Thư  [43]). Hư tưởng, hư huyễn, huyễn tưởng: cám dỗ của văn chương cũng là cám dỗ của hư vô.  Ung Thư là cuốn truyện viết dở dang, một symphonie inachevée. Trong bài tựa Bếp Lửa in lần  thứ hai, TTT thú nhận mình viết cuốn sách với ý nghĩ trong khi mình viết, người khác chết. Ý  nghĩ làm tê liệt hứng khởi tạo tác, không thể hoàn thành những dự thảo, phóng tưởng kế  tiếp [44]. Biết đâu rằng ý nghĩ văn chương chính là một hư tưởng đã làm tê liệt hứng khởi tạo  tác khiến sau khi viết ra “kinh nghiệm đau đớn nhất của An”, TTT đã chỉ viết thêm một trang  rồi bất ngờ ngưng ngang cuốn truyện? 

Thơ • 14 

Thạch: (Cuộc tương tàn quốc-cộng:) Trinh hỏi Cảnh: Anh ra hậu phương có phải không …  Làm sao cô biết tôi ra hậu phương? [45] Em đoán phỏng thế. Các anh nếu không đi lính  thì chỉ có thể ra hậu phương … [46]. Ông chủ bút an ủi mẹ của người thợ trẻ nhà in bị bắt  lính: Con trai thời này là phải đi lính cả. Không bên này thì bên kia [47]. Không thể chấp  nhận cộng sản, Thạch đành phải “đi lính quốc gia”, theo học khóa huấn luyện sĩ quan do Pháp  đào tạo. Trên chuyến bay về Hà nội dự lễ mãn khóa, Thạch mỉm cười nghe những đứa ngồi  cạnh bàn tính; đứa nói sẽ vận động xin được ra tiếp tục học thuốc hoặc chuyển sang ngành  quân y sắp mở, đứa tìm một chỗ ngồi bàn giấy hoặc ngành quân nhu ở bộ tham mưu đệ tam  quân khu ngay Hà Nội, đứa hy vọng làm sĩ quan tác động tinh thần khỏi phải ra mặt trận;  một đứa bỗng nói lớn: “ Tao sẽ xin đi đóng đồn rồi dẫn lính ôm súng bỏ ra ngoài (theo Việt  Minh).”, cả bọn bỗng im phắc, Thạch cười: “Ý kiến hay”, tiếp theo Thạch văng tục: Merde.  [48]. Trên chuyến xe từ phi trường về thành phố, Bỗng đứa ngồi cạnh làm Thạch giật mình,  nó là đứa đã tuyên bố ở trên phi cơ sẽ ôm súng theo Việt Minh, … nó hỏi Thạch “Anh thù  Việt Minh” Thạch nói trỏng: “Sais pas”; nó lại hỏi tiếp “Anh cũng không ưa quốc gia, vậy  anh ở đây làm gì?” Thạch lấy hết giọng ôn tồn bảo “Tais toi. Tu m’emmerdes” [49]. Sau,  Thạch được bổ nhiệm về đóng đồn ở Hưng Yên, đứng nhìn mãi những vòng rào thép gai,  đồng ruộng bỏ hoang bao vây bởi làng xóm thù nghịch [50] … những đêm liên hoan mừng  chiến thắng Điện-biên vẫn kéo dài trong các làng xóm vây quanh đồn, hằng ngày lính vẫn  ôm súng đào ngũ và Thạch không thể làm gì được … chỉ được lệnh phòng thủ với số quân  hao mòn dần … Thạch chạy cuồng lên tháp canh hướng vào làng ra lệnh xả súng bắn. Cho  chúng câm đi, câm luôn cả mối kiêu hãnh nhục nhã của mình [51]. Thạch nằm co quắp trên  ghế vải, khóc tức tưởi, những tiếng nấc dồn vỡ khúc khắc trong cổ họng. Tại sao? Tại sao  tôi ở đây, tôi vẫn ở đây? Trong cuộc chiến tranh này tôi đứng chỗ nào? [52] Thạch, nói với  nhân vật Tùng: “Với tôi thì cái lỗi lầm nặng nhất là họ (Cộng sản) đã dồn tôi phải đứng trong  hàng ngũ những kẻ tôi cũng thù nghịch.” Tùng: Mình phải đi lính cho Tây chứ gì… Thạch:  Gần như thế [53]. Về những sĩ quan cùng khóa trên chuyến bay về Hà nội dự lễ mãn khóa,  Thạch đã tự hỏi: Tại sao tôi vẫn còn yêu mến những cái chúng yêu mến, tại sao tôi chưa rời  bỏ biệt tích đến một chỗ nào hoàn toàn mới lạ với những sự vật của riêng tôi? Tôi không  thể nào yêu cái gì mà chúng nó cũng yêu, nếu chỗ nào chúng tới tôi phải bỏ đi, nếu chúng  chiếm hết cuộc đời, tôi sống với hư vô, nếu chúng yêu tôi, tôi sẽ giết tôi. [54]. Chúng yêu tôi  nghĩa là tôi có cái giá trị mà chúng trân quí, nếu vậy thì cái giá trị đó là giả giá trị, mà tôi phải  hủy diệt đồng nghĩa với sự tự diệt. Sống trên chính quê hương, nhưng tới một lúc Thạch ngộ ra  rằng mình chưa từng có một quê hương, vì mọi nơi đều bị “những kẻ Thạch cũng thù nghịch”  ở cả hai phía chiếm hết cả. Thạch cất tiếng cười, mày phải bắt đầu biết chấp nhận nếu không  muốn tự tử, chấp nhận cảnh ngộ, chấp nhận những cần thiết của lịch sử. Mày chưa bao giờ  có một quê hương, bị chiếm hết ở mọi nơi; bởi mày chưa chết, mày phải chấp nhận, nuôi lấy  tuyệt vọng với hi vọng vượt được khỏi tuyệt vọng [55]. Cảnh thấu hiểu tâm trạng của Thạch, hỏi bạn: Thế không phải là cậu đã tự tử từ lâu rồi à? [56]. Cảnh nghĩ: Thạch hay kêu: phải  mở một lối thoát và rốt cuộc hắn lao đầu vào hư vô [57].  

Cảnh: Cảnh nói với Thạch: Trong cái xã hội này mình cũng bị aliéné… Mình phải quên  mình đi [58]. Cảnh rời thư viện về quán cơm trọ … từ cái ra-đi-ô … phát ra tiếng hát ân  tình nỉ non … Cảnh nghe giận cái tiếng hát đìu hiu vô tư … Không thể còn sự ngây thơ,  không thể còn những mơ mộng vô tội, người ta chỉ có thể mơ mộng bằng kiếp sống, bằng  hành động. Chỉ còn có thể một giấc mộng … giấc mộng của những Robespierre, Saint-Just,  Marat… [59] (Cảnh sẽ làm những gì?) Những gì tôi nghĩ là đúng. Không phải. Những gì mà  lịch sử cho là đúng. Những gì có thể phủ nhận chính cá nhân tôi… Lịch sử là như thế, bạo 

15 • Tân Hình Thức 

động, mù quáng, vô lí, bất kể cá nhân. Và cá nhân phải sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của nó  [60]. Đi đến đâu? Gặp những ai? Chắc chắn sẽ phải qua lớp cải tạo tư tưởng. Chấp nhận  hết, không đòi hỏi gì hết. Bằng lòng xóa trắng mình. Tôi sẽ không là gì nếu không gia nhập  được vào lịch sử [61].  

Nhóm bạn bốn người đó, Đồng, An, Thạch, Cảnh, mỗi đứa rồi sẽ trôi dạt một phương, cơn  lụt của lịch sử sẽ cuốn lấy, bám chặt vào những mảnh vụn của một giấc mộng chung tan  vỡ [62]. An từng nói với Đồng về Thạch: Tôi nhớ một lần nó có nói: nó đi lính là đánh giặc  mướn, đánh giặc mướn ngay tại xứ sở của mình. Cũng như bọn Lê-dương vậy… Mình rồi  có làm gì cũng đến như thế. Tiêu tan dưng không chẳng ra cái gì cả [63]. Thạch, với ĐồngMột bữa nào sáng ra nhặt xác ngoài đồn, tôi trông thấy thằng Cảnh hay là nó vào đồn nhìn  thấy xác tôi. Có thể như thế lắm chứ [64]. Thạch bị thương, nằm trong nhà thương Bạch-mai,  nhắn Đồng, Đồng vào thăm, Thạch: “… thằng An hay tôi hay thằng Cảnh hả, nous sommes  condamnés à mort, condamnés à se détruire…” [65]. Thạch nghĩ: có lẽ Cảnh nói đúng, thế  hệ này bị hi sinh, mỗi đứa một cách [66]. An nói với Đồng: Chính chúng ta có thể gọi là một  génération perdue … Không tin tưởng, lạc lõng … Các bậc đàn anh, cha chú ở ngoài kia  cũng như trong này đều chống lại chúng ta … Hay chúng ta chống lại họ cũng vậy. Thế hệ  trước chúng ta họ có lịch sử và chúng ta thì không. Chỉ còn một thái độ hư vô. Nous som mes perdus … [67]  

Ngay đầu truyện, Thanh Tâm Tuyền trích dẫn câu của André Malraux trong cuốn La Voie  Royale: Mais accepter vivant la vanité de son existence, comme un cancer, vivre avec cette  tiédeur de mort dans la main. (Nhưng chấp nhận sống cái hão huyền của cuộc hiện sinh của  y, như một căn bệnh ung thư, sống với hơi ấm nồng này của nỗi chết trong tay.) Và ông lấy  hai từ “ung thư” làm tựa truyện. Ung thư, căn bệnh không thể chữa lành. Như cuộc xung đột  Quốc-Cộng đầy máu và nước mắt, “mênh mông trời xương tủy” [68], không thể được hóa giải.  

Nhân vật chính tên Trí trong Cát Lầy, như nhân vật Tâm (xưng “tôi”) trong Bếp Lửa, như những  Đồng, An, Thạch, Cảnh trong Ung Thư, cũng “lăn mình theo mối cám dỗ lớn lao của hư vô”.  Tuy nhiên khi trong Bếp Lửa, và rõ nét nhất là trong Ung Thư, tính chính trị là cốt lõi – thì  Cát Lầy là một truyện tình. Lí do khiến một số chi tiết trong truyện có màu sắc chính trị là bởi  tác giả phải mô tả nhân vật chính: Trí là thanh niên trí thức tỉnh lẻ miền Nam, sau hiệp định  Genève 1954, cùng bè bạn rủ nhau tính trốn ra Bắc, việc không thành, bị bắt vào bót Catinat;  ở đây, bên kia hàng chấn song Trí nhìn thấy một “thiếu nữ bận bà ba trắng, tóc còn xõa, dựa  vào tường, mắt nhắm hai chân duỗi thẳng, chân mặt của nàng tra trong một vòng sắt của  cái cùm công cộng”[69]. Cô gái thuộc gia đình có thế lực, được giam trong hành lang tránh  mưa nắng, được tiếp tế đầy đủ, và được thả trước. Sau khi được tha, Trí tình cờ gặp lại cô gái,  cô tên Diệp, cũng bị bắt trong một toán học sinh khác mưu tính ra khu tập kết [70]. Họ yêu  nhau. Trong truyện, Trí có tìm gặp lại ông Hoanh, người thầy năm lớp nhất, người đã “mở óc,  kết nạp, hướng dẫn hoạt động mấy năm trước”, Trí tới thăm không phải để móc nối tiếp tục  hoạt động, mà để “so chừng cái mức độ rã rời của một lý tưởng ở nơi tôi (Lý tưởng trở thành  huyễn tượng và con người bị nhấc bổng treo giữa hư vô) [71]. Tôi đã bị hư vô cám dỗ và cứ  phải dấn thân mãi vào trong một cõi mù mịt, bất trắc [72]. Ngông cuồng và tự ái nhốt chặt  tôi vào hư vô mộng tưởng [73]. Và tôi hóa thành niềm hư vô bảng lảng … [74]. Ông Hoanh giới thiệu Trí với một nhóm sinh viên, Trí không “ngửi” nổi đám này, “bọn trưởng giả đớn  hèn chỉ làm mình khinh bỉ, chúng nói chuyện cách mạng như sức dầu thơm đi dự dạ hội” [75]. Sau lần tính trốn ra Bắc thất bại, với Trí, cuộc phiêu lưu nửa chừng biến tôi thành một 

Thơ • 16 

mớ những ước muốn, toan tính nửa vời, một ý thức trôi giạt trong hư ngụy [76]. Sau khi ông  Hoanh cùng một số học sinh trong tỉnh bị bắt giữ, Trí bỗng nhận ra mình đang kéo lê cuộc đời  nhạt nhẽo vô vị, không biết mình đang đứng ở phía nào [77]. Hiển nhiên là cái mức độ rã rời  của một lí tưởng đã đẩy Trí tới bờ vực hư vô, nhưng chính mối tình Trí-Diệp còn là một nhân  tố đóng góp thêm vào. Đó là một mối tình có sức hủy diệt mù lòa tàn khốc. Diệp yêu Trí hơn  cả bản thân, nhưng còn Trí thì sao? Đây là Trí: Phải chăng không thể có được tình yêu, tình  yêu đích thực … tình yêu chẳng qua là sản phẩm của trí tưởng tượng nghèo túng, một thế  giới ảo tưởng của những kẻ lừa [78] gạt lẫn nhau trong một trò chơi kiểu bịt mắt bắt dê, trốn  chạy cuộc phiền nản hằng ngày. Người tham dự che mắt, mò mẫm, sờ soạng, rượt bắt nhau,  vấp ngã bươu đầu sứt trán trong khi chính mình có thể ngừng lại giựt tung tấm khăn bịt  mặt … Tình tự cùng Diệp, ghì nàng trong ngực, tôi nghe tôi phân hóa chới với như một cõi  hư vô giả dối. Tôi cần Diệp đó nhưng tôi đứng ngoài mối tình của nàng trao tặng … Chúng  tôi không nói chung một thứ ngôn ngữ. Lúc ấy tôi tự rủa: cớ sao mày không si mê như mọi  người? Cái gì giữ mày lại nơi ngưỡng cửa tình yêu? Nhưng có thật chăng, bước tới là vào  một thế giới hiện hữu hay chỉ rớt xuống lòng vực không đáy? Anh yêu em, anh yêu em. Tôi  nói nhưng chẳng tin, trong tim tôi quay cuồng vực trống, nỗi cô độc chẳng rời [79]. Trường  tỉnh nơi Diệp theo học mướn một thầy giáo người Bắc di cư mới vào, tên là Hiệp, học trò mến  phục, Diệp tán tụng Hiệp nhiều lần với Trí. Trí: Coi chừng em mê luôn ông thày của em đó [80]. Diễn biến của truyện Cát Lầy không theo trật tự thời gian tuyến tính, quá khứ và hiện  tại đan xen nhau, và kèm theo đó là sự đan xen của những dạng thức khác nhau của tình yêu:  Diệp không rõ hết những dạng thức của tình yêu, Diệp không biết rằng nàng yêu Hiệp. Nàng  không thể biết và cũng không muốn biết [81]. Buổi tối Diệp bắt gặp Trí trong nhà Hiệp-Thuận  (Thuận là vợ Hiệp, ngày đó Hiệp có việc đi Saigon, nhờ Diệp tới ở chơi với Thuận cho Thuận  đỡ sợ, nhà chỉ có hai vợ chồng), suốt buổi tối Diệp chỉ nói với Trí một câu duy nhất: “Anh ở  lại với chị Thuận cho chị đỡ sợ. Chừng nào anh Hiệp về, hãy về”. Trước khi về, Diệp nói với  Thuận: “Em khép cửa cho khỏi gió”. Tôi (Trí) cúi gầm đầu, nghe vẳng mãi tiếng cười giả tạo  của Diệp ngoài cửa … Diệp, không phải như em tưởng, anh yêu chị Thuận, nhưng không  phải như em tưởng. Diệp, em không hiểu hết những dạng thức của tình yêu. Cả Thuận nữa,  chị cũng không hiểu [82]. Chỉ có Hiệp … Anh hiểu tôi yêu Thuận như hiểu Diệp yêu anh [83]. Chỉ trước khi Diệp tự tử, trước khi Trí mở lưỡi dao bào để cắt mạch máu cổ tay, Trí mới  “Dường như khi ấy tôi nghe được tình yêu của chúng tôi” [84]. Chỉ là “dường như”. Nhưng  chỉ có Diệp chết, còn Trí được cứu thoát. Cái chết hụt bôi trắng một quãng ngày tháng, tôi  chỉ còn tôi, một cõi hư vô rung động [85]. Lúc nào tôi cũng chỉ thấy mình, chỉ nghe vô vàn  thứ tiếng hỗn độn trong vùng hư không ẩn giấu trong mình [86].  

Như tôi vừa nói trên, tính chính trị, rất rõ nét, là cốt lõi của Ung Thư, có thể xếp tác phẩm  này vào thể loại tiểu thuyết chính trị. Có thể tìm được trong Ung Thư nhiều sử liệu, tuy chỉ là  sử liệu trong khoảng thời gian một thập niên trước hiệp định Genève 1954: Không có thế lực  nào thực sự là “quốc gia, dân tộc”. Những kẻ vạch đường lối của khối Cộng đã khôn ngoan  chỉ đạo những đảng cộng sản tại các nước thuộc địa nghèo: bề ngoài, hãy dương cao ngọn cờ  giải phóng dân tộc [bên trong, là cách mạng vô sản], như thế là tước đoạt cái “chính nghĩa”  của phe “quốc gia”. Các đảng phái quốc gia không có đường lối thu hút được quần chúng, vẫn  giữ lí tưởng lạc hậu là chỉ cần dựa vào cái tinh thần quốc gia dân tộc là đủ, tỉ như quan niệm  về giòng sống, giòng sử của nòi Việt, rằng phải intégrer được cái quá khứ lịch sử của một  dân tộc [87], tình trạng hiện tại là các thế lực “quốc gia” phải dựa vào Pháp để chống cộng:  Hà nội, những năm 1950, 51 chính quyền “quốc gia” đã phải thực hiện những cuộc bố ráp (tại  cửa các rạp chiếu bóng, tại các ngã tư chính) để bắt lính, bắt các thanh niên rồi giao cho Pháp, 

17 • Tân Hình Thức 

nhờ Pháp huấn luyện. Trí thức Mĩ đã tới Hà nội để cổ động cho phong trào hòa bình thế giới  [88]. Phái đoàn tướng lãnh Mĩ đến Saigon họp với Pháp, De Lattre sang Việt Nam, tả phái Pháp  gây phong trào vận động chấm dứt chiến tranh Đông dương [89]. Nhân vật Nghiêm phân tích  tình hình chính trị: Pháp thất bại về quân sự, phải dựa vào Mĩ, giải pháp chia đôi V.N. của Anh  (Nghiêm: Hiện chúng tôi có dự định sẽ ném lựu đạn vào tòa lãnh sự Anh cho chúng nó biết  mặt. Thí dụ như thế anh có làm được không? Thạch [đã đào ngũ]: Đó là trò chơi hằng ngày  trong mấy năm nay của tôi. Tôi làm cho [90].), cuộc mặc cả về vĩ tuyến, 13, 16 hay 17, lá bài  Ngô Đình Diệm của Mĩ để thay thế Bảo Đại, Pháp phải miễn cưỡng chấp nhận Ngô Đình Diệm  làm thủ tướng: bước đầu của Mĩ vào Việt Nam [91]. Sài-gòn tan nát trong tình trạng sứ quân,  đại hội toàn quốc họp dưới sự che chở của một tay anh chị [92]. Đôi khi chỉ là một chi tiết  nhỏ, nhưng hàm chứa nhiều: Trở về còn sớm Hải bảo Liêm đạp xe theo ngả hàng Lọng, để đi  qua phố Ôn-Như-hầu Hải sẽ chỉ cho xem gian nhà trụ sở của Việt-quốc thời 45 nơi người  ta tìm thấy những người bị thủ tiêu chôn ở ngoài vườn [93]. Xin trích dẫn vài giòng trong  đoạn Cảnh gặp người phụ nữ giao liên sẽ đưa Cảnh tới địa điểm tập kết để trốn ra hậu phương  theo kháng chiến: Người đàn bà … đầu chít khăn len che mái tóc cắt cụt đến vai, dấu hiệu  của người mới ở ngoài vào thành … mẫu người mới, không nhan sắc nhưng hữu ích … (đón  Cảnh) bằng một nụ cười, không phải là nụ cười trang điểm tự biến mình thành đồ vật cho  người nhìn ngắm … Người đàn bà không thuộc riêng ai, không cần phải quyến rũ ai … [94].  Chị xoa hai tay vào nhau, móng tay cắt sát tròn ngắn, nhiều dấu gạo trắng [95]. Móng tay  cắt sát tròn ngắn, vì móng tay không phải để sơn phết làm đẹp; móng tay nhiều dấu gạo trắng,  vì ăn uống thiếu chất dinh dưỡng.  

Không chỉ là nhà thơ lớn, nhà văn lớn, Thanh Tâm Tuyền còn là một trí thức ưu thời mẫn thế,  luôn rất “kịp thời”. 

Ngày 12 tháng 11 năm 1956, Liên Xô kéo đầy đường chiến xa đại bác vào thủ đô Buy đa pét  để nghiền nát cuộc cách mạng dân chủ của Hung-ga-ri, thì chỉ vài tuần sau Thanh Tâm Tuyền  có bài Hãy Cho Anh Khóc Bằng Mắt Em / Những Cuộc Tình Duyên Buydapest (đăng Tạp  chí Sáng Tạo số tháng Giêng 1957 – cuối bài ghi 12-[19]56). 

Khi bức màn sắt buông xuống khắp lục địa châu Âu, chia thành hai khối Đông & Tây Âu,  Thanh Tâm Tuyền có bài Thành Phố, rất ngắn, chỉ nhắc tới tên thủ đô một số nước thuộc khối  Đông Âu cộng sản (ngoài ra kể thêm … Bắc Hàn & Trung cộng & Bắc Việt): 

 Mưa giờ giới nghiêm tăm tối
trên hè đường hắt hủi
xưởng máy rầm rầm nghiến nát
 nước mắt thợ quánh dầu
 Vác-xô-vi Bá linh
 Bình nhưỡng Buy đa bét
 Mốt cu Pra-gơ Bắc kinh
 cửa nhà nào lỏng then
 nghe chừng bước đêm nặng nhọc
 bếp sưởi củi tàn
 áo manh tơi tả

Thơ • 18 

 giận lên cho ấm ngực gầy
Mưa giờ giới nghiêm tăm tối
 trên hè đường hắt hủi  

 Hà nội Hà nội [bốn âm sau chót, nghe nghẹn ngào, phải không T.?] 

 (trong tập thơ Tôi Không Còn Cô Độc, nxb Người Việt, 1956) 

Năm 1966 hai triết gia Anh & Pháp, là Bertrand Russell & J-P Sartre, kêu gọi lập “một tòa án  quốc tế chống tội ác chiến tranh tại Việt Nam”, được gọi là Russell Tribunal. Tòa án diễn ra tại  London tháng 11 năm 1966. Phiên xử cuối cùng diễn ra ngày 1 tháng 12 năm 1967. Chẳng đợi  tới ngày kết thúc đó, Thanh Tâm Tuyền cho đăng trên nguyệt san Vấn Đề số 3, tháng 6 năm  1967, mục Ngoài Lề, bài báo có tựa đề “Tòa án Russell, De Gaulle, và Sartre”, với bút danh  khác: Du Thanh Hảo – bài báo như một mũi tên bắn trúng ba con chim là ba “ông lớn” De  Gaulle, Russell & Sartre. 

Về De Gaulle: Lẽ ra tòa án diễn ra ở Paris, nhưng De Gaulle viết thư gửi Sartre, từ chối không  cho họp tại Paris. De Gaulle viết rằng quan điểm về chiến tranh V.N của “tòa án” kia không  đối lập với quan điểm của chính phủ ông … nhưng dù thế nào nước Mĩ vẫn là bạn đồng  minh cố cựu của nước Pháp … nên ông không thể để cho nước ấy phải chịu sự phán xét của  một thể thức bất chấp luật lệ công pháp quốc tế trên lãnh thổ Pháp. Nhưng Thanh Tâm Tuyền  nói rõ rằng Sartre tố cáo De Gaulle chịu áp lực của Mĩ, tiết lộ rằng Mĩ chỉ cần không cho  Pháp thuê những máy tính điện tử khổng lồ đủ khiến nền kinh tế Pháp xáo trộn … 

Về Sartre: Thanh Tâm Tuyền nhấn mạnh vào việc Sartre lờ đi coi như không có miền Nam  V.N. và tuyên bố thẳng thừng: “Chúng chỉ muốn làm áp lực bắt người ta phải tuyên bố trắng  ra là chỉ có một kẻ bị xâm lăng trong trận giặc này và đó là Hồ Chí Minh” đã khiến cho cái  gọi là tòa án của các ông chẳng còn tí khách quan nào nữa cả. De Gaulle viết thư cho Sartre,  mở đầu bằng Mon cher Maître (Thưa Tôn sư, hoặc Kính Bậc Thầy), là thư riêng, có tính cách  cá nhân, Sartre đáp rằng “tôi chỉ là Maître đối với mấy tên bồi nhà hàng biết tôi viết lách” –  Sartre bất mãn: lẽ ra De Gaulle phải viết gửi “vị chủ tịch tòa án” (Sartre là Chủ tịch Russell  Tribunal). De Gaulle mới chỉ lờ đi có một tính cách chủ tịch tòa án của Sartre đã khiến ông  bất mãn, trong khi ông lờ đi hằng triệu con người “hiện sinh” cụ thể tại miền Nam thì lại  chẳng sao. Cũng chẳng nên lấy làm buồn, Sartre là người làm De Gaulle nể phục, các chính  phủ trên thế giới nể phục, còn những người sống tại miền Nam tối tăm chẳng khiến ai phải  sợ cả, nói đến hay không chẳng cần, và người miền Nam cũng đã quá quen với tình trạng  người ta không đếm xỉa tới mình

Về cặp Russell-Sartre: Thiết lập tòa án, hai ông muốn chứng tỏ tinh thần nhân bản Tây  phương gương mẫu cho toàn thể nhân loại noi theo … Nhưng nếu nhìn đúng theo triết lý  của Sartre thì muốn hay không họ vẫn là đồng lõa của những tình trạng đã xảy ra trên thế  giới và việc thiết lập tòa án này trước hết là phủ nhận tính cách đồng lõa ấy … Nhìn theo  con mắt Á Đông, tòa án của các ông thiết lập có hơi chậm. Đáng lý nó phải có từ thời Nha  phiến chiến tranh, từ năm 1858 khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha nã đại bác vào cửa biển  Đà Nẵng. Tất nhiên thời ấy chưa có nhà quý tộc Russell và Sartre, trí thức Tây phương chưa  có điều kiện dân chủ tiến bộ như ngày nay. Nhưng người Á Đông có quan niệm con cháu  phải chịu trách nhiệm về tiền nhân nên dù muốn dù không các ông trí thức Tây phương  không thể nào phủi tay sạch sẽ về những tội ác của ông cha trong quá khứ. Cuộc chiến 

19 • Tân Hình Thức 

tranh tàn khốc mà dân tộc V.N. phải chịu đựng nó khởi từ cái ngày chế độ tư bản và cả chế  độ cộng sản nữa do các ông sản xuất ra … nếu muốn điều tra xét xử một cách tường tận  đáng lý các ông phải thiết lập một hồ sơ dầy cộm cả một thế kỷ …  

Bếp Lửa, Ung Thư, Cát Lầy, mở ra một vùng hư không lồng lộng bát ngát, phải vậy chăng? Hư  vô, hư không lồng lộng bát ngát, mỗi khoảnh khắc mỗi lộng đổ nát, gió những trời vô tận thổi  về, ai cũng cảm nhận rằng Nothing tức khắc trở thành Something ngay khi ta nói về nó, càng  nói say sưa về hư không càng làm hiển lộ một hư không lồng lộng bát ngát.  

Tôi đọc lại vài câu buồn rưng rưng cuối đường của một ngày [96]: 

Tôi về trải chiếu trên căn góc ọp ẹp Ngọc đã ở. Hắn đi thật rồi, như ông Chính chết, như Đại  đã đi. Không muỗi nhưng hơi lạnh về giữa đêm. Tôi mê gặp Hạnh và tỉnh giấc. Tôi không  nhớ mình đang nằm ở đâu, mình đến đây làm gì. Chưa bao giờ tôi cảm nỗi tuyệt vọng ghê  gớm đến như thế. Tôi có thể tự tử được. Nhưng tôi tự nhủ: Cũng thế thôi, phải, cũng thế  thôi. 

Tôi [Trí] ngồi đây trước người bệnh và biết đời mình không ở đâu cả… Nếu đêm bất tận?…  Buổi mai nào cũng là một ảo tưởng [97]. Tôi sách chai vào buồng tắm, hứng nước trong vòi,  uống hết ống thuốc mua cho Diệp… Rồi tôi nằm trên giường, kéo chăn đắp, mở lưỡi dao  bào… Tôi nghe những tiếng la gọi vang âm như từ trên những đỉnh núi cao xa, mây dồn cục  che khuất. Những tiếng la gọi của một cõi đã mơ hồ… [98].  

Tất cả, tất cả đều là những nỗi niềm tan nát, là những hứa hẹn của hư vô, nhưng kì lạ thay, người  đọc không bị đoạ trong những tan nát vỡ vụn đó, tôi chợt hiểu, những tan nát đó, là despair  made beautiful, những tan nát càng ghê gớm thì càng làm chứng cho nghệ thuật lớn lao của  TTT: cái đẹp đã cứu chuộc.  

Chẳng phải rằng Flaubert đã nói chúng ta rút ra sức mạnh từ nỗi tuyệt vọng, rằng Chopin đã trút  cũng những nỗi niềm tan nát đó xuống cây đàn piano, rằng ai đó nói, tôi quên rồi, văn chương  là cuộc cứu rỗi cho kẻ bị đày đọa, rằng tiểu thuyết sinh ra từ sự vỡ mộng, rằng thơ sinh ra từ  niềm tuyệt vọng? 

Tôi luôn có nỗi buồn này khi đọc Thanh Tâm Tuyền (tôi rất cần nói thêm: và khi đọc Đỗ Long  Vân): chỉ sợ hết. Joseph Epstein kể rằng sử gia về ngành kinh tế đại học Harvard, tên Alexander  Gerschenkron (có giải thưởng kinh tế mang tên ông), khi đọc tới cuối cuốn War and Peace,  lòng buồn trĩu nặng, ông dừng lại, thở dài, rồi … đọc lại từ đầu [99]. Michael Dirda viết một  câu không thể “bất nhân” hơn: “Cứ để cả thế giới rộng lớn vỡ vụn tan tành, miễn là tôi có thể  đọc thêm trang nữa. Và rồi một trang kế nữa. Và rồi thêm trăm trang nữa” [100].  

Trước khi chấm dứt, tôi xin nói lời cuối bài (dù ai cũng hiểu là không có lời cuối, mọi cuộc nói,  cuộc viết, cuộc đời đều là những cuộc ngưng ngang, ngang xương – chẳng bao giờ Valéry làm  xong một bài thơ): Tôi hẳn bị chê trách vì trích dẫn quá nhiều, nhưng khi trích dẫn những tác  giả lớn tôi thường rất bất mãn với chính tôi. Tôi luôn cảm thấy đoạn trích dẫn không giữ được  đầy đủ ý nghĩa so với khi nó nằm trong mạch văn: nội dung của đoạn đã bị cắt xén loãng  nhạt. Thay vì trích dẫn, lẽ ra tôi nên viết ra đây toàn bộ 302 trang Ung Thư

 Phạm Kiều Tùng

Thơ • 20 

Chú thích 

[1] Thanh Tâm Tuyền nói trong cuộc thảo luận của nhóm Sáng Tạo về Nhân vật trong tiểu  thuyết, Saigon 1960. 

[2] Cát Lầy, trang 22, nxb Giao Điểm, Saigon, 1967. 

[3] Fiction is higher autobiography, trích dẫn trong John Sutherland, Lives of the Novelists,  New Haven, Yale University Press 2012, trang 525. 

[4] Any book that is any good must be, to some extent, autobiographical (John Sutherland, sách  đã dẫn, trang 647). 

[5] Đỗ Long Vân, bài Nhân Một Kinh Nghiệm Thơ, báo Đại Học, số 31, tháng 2, 1963. [6] Bếp Lửa, trang I-II, ấn bản chung quyết, nxb Kẻ Sĩ, Saigon, 1973. 

[7] George Steiner trả lời phỏng vấn của Dominique Simonnet, báo L’Express 28 Decembre  2000: Le siècle le plus meurtrier de l’histoire humaine… Les historiens nous diraient qu’entre  août 1914 et mai 1945 70 millions d’êtres humains ont péri dans les guerres, les camps, par la  torture, la déportation, la famine; et on a parlé de 100 millions de victimes du stalinisme… 

[8] … torture was the ‘essence’ of the Third Reich … For a Nazi torturer, [a] slight pressure by  the tool-wielding hand is enough to turn the other – along with his head, in which are perhaps  stored Kant and Hegel, and all nine symphonies, and The World as Will and Representation –  into a shrill squealing piglet at slaughter. Jean Améry, bị quốc xã tra tấn, rồi bị chuyển tới Aus 

chwitz rồi Buchenwald rồi Bergen-Belsen, được quân Anh giải thoát năm 1945; 1978 thì tự sát. [9] bài phỏng vấn dẫn trên: Les bibliothèques, musées, théâtres, universités peuvent très bien  prospérer à l’ombre des camps de concentration. Nous le comprenons maintenant: la culture ne  rend pas plus humain. 

[10] White: The things I believed in don’t exist any more. … Western civilization finally went  up in smoke in the chimneys at Dachau … Lời nhân vật White trong vở kịch của Cormac Mc Carthy: The sunset Limited, bản pdf pages 14-15. Vở kịch chỉ có 2 nhân vật, một Trắng một  Đen; Trắng do Tommy Lee Jones thủ vai, Đen do Samuel L Jackson. Đây là một cuốn tiểu  thuyết hơn là một vở kịch, chính tác giả ghi thêm: là một tiểu thuyết dưới dạng kịch [a novel in  dramatic form]. Tờ The New York Times gọi nó là “một bài thơ tán dương cái chết” [a poem in  celebration of death]. Trên chuyến xe lửa từ New Orleans tới Los Angeles, nhân vật White, vì  

không còn gì để tin tưởng nữa, đã toan tự tử, nhưng được nhân vật Black cứu thoát.  [11] Thanh Tâm Tuyền, bài Tù Binh, trong Tôi Không Còn Cô Độc, nxb Người Việt, Saigon,  1956 

[12] V39/87-UT 95 

[13] V38/104-UT 82 

[14] V37/139-UT 71 

[15] V39/93-UT 101 

[16] V31/99-UT 7 

[17] V31/100-UT 8 

[18] V37/142-UT 74 

[19] Bếp Lửa, trang 73, ấn bản chung quyết,  nxb Kẻ Sĩ, Saigon, 1973. 

[20] Bếp Lửa, trang 31 

[21] Bếp Lửa, trang 32 

[22] Bếp Lửa, trang 35 

[23] Bếp Lửa, trang 73 

[24] Bếp Lửa, trang 74 

[25] Bếp Lửa, trang 27 

[26] Bếp Lửa, trang 49 

[27] Bếp Lửa, trang 65-66 

[28] trong bài Tình Cờ, tập Tôi Không Còn  Cô Độc  

[29] Bếp Lửa, trang 88 

[30] Bếp Lửa, trang 89 

[31] Bếp Lửa, trang 100 

[32] Bếp Lửa, trang 111 

[33] V42/107-UT 124 

[34] V36/78-UT 60 

[35] V36/79-UT 61 

[36] V48/165-UT 202 

[37] V36/78-UT 60 

[38] V41/90-UT 115 

[39] V41/91-UT 116

21 • Tân Hình Thức 

[40] V42/118-UT 135 

[79] Cát Lầy, trang 48. 

[41] One lives in the hope of becoming a  memory – tập thơ Voices of Antonio Porchia,  W.S.Merwin dịch sang Anh ngữ từ tiếng Tây  Ban Nha, trang 13, nxb Big Table Publishing  Company, Chicago, 1969.  

[42] V39/98-UT 106 

[43] V62/86-UT 301 

[44] Bếp Lửa, trang II, ấn bản chung quyết,  nxb Kẻ Sĩ, Saigon, 1973. 

[45] V39/92-UT 100 

[46] V39/93-UT 101 

[47] V51/140-UT 218 

[48] V31/94-UT 2 

[49] V31/99-UT 7 

[50] V57/98-UT 263 

[51] V57/96-UT 261 

[52] V57/97-UT 262 

[53] V57/101-UT 266 

[54] V31/98-UT 6 

[55] V57/102-UT 267 (trang này, heading bị  sắp chữ lộn, là VĂN 75) 

[56] V34/108-UT 44 

[57] V38/108-UT86 

[58] V33/95-UT 21 

[59] V39/88-UT 96 

[60] V41/94-UT 119 

[61] V41/96-UT 121 

[62] V31/102-UT 10 

[63] V39/95,96-UT 103,104 

[64] V42/110-UT 127 

[65] V48/164-UT201 

[66] V57/126-UT 272 

[67] V39/95-UT 103 

[68] Nửa của một bài thơ của Nguyễn  Nghiệp Nhượng. 

[69] Cát Lầy, trang 52, nxb Giao Điểm, Sai gon, 1967. 

[70] Cát Lầy, trang 51. 

[71] Cát Lầy, trang 87. 

[72] Cát Lầy, trang 103. 

[73] Cát Lầy, trang 117. 

[74] Cát Lầy, trang 122. 

[75] Cát Lầy, trang 90. 

[76] Cát Lầy, trang 57. 

[77] Cát Lầy, trang 121. 

[78] Cát Lầy, trang 47. 

[80] Cát Lầy, trang 46. 

[81] Cát Lầy, trang 47. 

[82] Cát Lầy, trang 104. 

[83] Cát Lầy, trang 105. 

[84] Cát Lầy, trang 171. 

[85] Cát Lầy, trang 16. 

[86] Cát Lầy, trang 21. 

[87] V36/74-UT 56 

[88] V59/101-UT 284 

[89] V41/89-UT 114 

[90] V59/102-UT 285 

[91] V59/101,102-UT 284,285 

[92] V59/99-UT 282 

[93] V51/135,136-UT 213,214 

[94] V41/91-UT 116 

[95] V41/92-UT 117 

[96] Liên Những Bài Thơ Tình Thời Chia  Cách, tập Tôi Không Còn Cô Độc, nxb  Người Việt, Saigon, 1956. 

[97] Cát Lầy, trang 139-141. 

[98] Cát Lầy, trang 176-177. 

[99] As in reading other great books of mag nitude—The Decline and Fall of the Roman  Empire, War and Peace, Remembrance of  Things Past—one feels a sadness at coming  to its conclusion. The Harvard economic his torian Alexander Gerschenkron has told of  coming to the end of War and Peace with this  feeling of sadness so heavy upon him that he  paused, sighed, and then turned the novel over  and began it again from the beginning. Joseph  Epstein, Life Sentences, W.W.Norton & Co,  New York, 1997 

[100] Let the whole wide world crumble, so  long as I can read another page. And then  another after that. And then a hundred more.  Michael Dirda, p. 13, Readings, Essays and  Literary Entertainments, Indiana University  Press, 2000.

Thơ • 22 

THƠ VIỆT MỘT THỜI
 ________________________________

Dương Tường
WAGNER 

 Gửi Đặng Đình Hưng
Bao giờ
về
thượng nguồn thơ
nghe
U ơ
jó bờ đau
xạc xào
trang cát chữ
cung cầm lạc rưng rưng khói mặt
người sập sẹ nắm hột khuya rắc
vào bến lạ*
ghe ghe buồm
gai chiều mù
U mộng trắng
Phải
lọt lòng
một khối U thơ 

* Thơ Đặng Đình Hưng 

Lê Đạt 

TRÁI MÙ U
Xuân tự bao giờ 

Mà hoa tuổi mở 

Xuân tự bao giờ  

Mà hoa ngực nở 

Cho mùa dạ hương 

Để má mấy thương 

Để hường mới nhớ 

Mấy vườn liêu trai. 

Đèn phải nơi ai 

Mà đèn đỏ mặt 

Nhà ngổn ngang đường 

Dây điện nhện vương. 

Lối sữa lộc măng mẩy nhựa 

Trăng tròn thêm trái nhớ mù u. 

Nguyễn Bính 

HÁI MỒNG TƠI 

Hoa lá quanh người lác đác rơi 

Cuối vườn đeo giỏ hái mồng tơi 

Mồng tơi ứa đỏ đôi tay nõn 

Cô bé nhìn tay nhí nhảnh cười 

Cách vườn tiếng gọi khẽ đưa sang 

Rẽ lá cô em trốn vội vàng 

Quên giỏ mồng tơi bên giậu vắng 

Tôi đem nhặt lấy gởi đưa nàng 

Năm tháng ta vui chốn ngựa hồng 

Cảnh xưa gò ngựa một chiều đông 

Cây khô dậu đổ mồng tơi héo 

Cô bé nhà bên đã có chồng. 

* Nguyễn Bính (19181966), quê tại Vụ Bản,  Nam Định. 

Thanh Tâm Tuyền 

HÃY CHO ANH KHÓC BẰNG MẮT EM NHỮNG CUỘC TÌNH DUYÊN BEDA PEST 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em 

Những cuộc tình duyên Budapest Anh một trái tim em một trái tim Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác Hãy cho anh giận bằng ngực em 

Như chúng bắn lửa thép vào 

Môi son họng súng 

Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào 

Hãy cho anh la bằng cổ em 

Trời mai bay rực rỡ 

Chúng nó say giết người như gạch ngói Như lòng chúng ta thèm khát tương lai Hãy cho anh run bằng má em 

Khi chúng đóng mọi đường biên giới Lùa những ngón tay vào nhau 

Thân thể anh chờ đợi 

Hãy cho anh ngủ bằng trán em 

Ðau dấu đạn 

Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm Chúng tấn công hoài những buổi sáng Hãy cho anh chết bằng da em 

Trong dây xích chiến xa tội nghiệp Anh sẽ sống bằng hơi thở em 

Hỡi những người kế tiếp 

Hãy cho anh khóc bằng mắt em 

Những cuộc tình duyên Budapest 12-56 

* Trích trong tập “Liên Đêm Mặt Trời Tìm  Thấy”.

23 • Tân Hình Thức 

Nam Chi 

HƠI THỞ, HƠI THƠ 

 nhân đọc một tác giả 

Thơ hay, nhiều lúc tình cờ, 

Thẩn thơ thơ thẩn, ai ngờ thơ hay. Thơ hay là bởi thơ hay 

Ai ngờ được lúc mây bay vào hồn. 

Thơ hay là ngọn gió cồn 

Dồn cơn chớp biển mưa nguồn làm thơ; Thơ làm như tỉnh như mơ, 

Làm thơ như thở 

như thơ chưa làm 

 Tháng 11-87 

* Nam Chi là bút hiệu của nhà phê bình  Đặng Tiến. 

Lê Giang Trần 

HỘI CHỨNG NHỚ 

nhớ quê nhớ biển nhớ đồng 

nhớ Honda lạng lòng vòng thành đô nhớ thành vòng phép kim cô 

siết trên đầu lúc bơ vơ xứ người 

níu cô bưng rượu mời ngồi 

cho đau nhức nhớ bốc hơi khỏi đầu cụng ly cái cốp yêu cầu 

em lên hát bản nhạc nào cho dzui. 

Thơ • 24 

Nguyễn Đình Chính 

GƯƠNG MẶT THẬT  

CỦA TÌNH YÊU 

Đã nhiều lần anh muốn hái tặng 

em những bông hoa ngoài bãi sông những bông hoa không có tên, những 

bông hoa có mùi của đất bùn 

có mùi của ánh nắng, có mùi 

của những cơn gió không hề biết 

do dự, những bông hoa có một 

cuộc đời ngắn, ngắn ngủi quyết  

liệt, chúng chỉ sống có một ngày 

chúng nở tung cánh vào lúc bình 

minh khi đất trời rạng sáng và 

chúng rụng cánh tả tơi tàn lụi 

khi mặt trời lặng xuống. Đã nhiều  lần anh lại muốn choàng lên vai 

em chiếc ba lô bụi và kéo 

em đi lang thang bất cần cùng 

trời cuối đất. Đêm mùa hè ta 

nằm bên nhau giống như hai con 

dế nhỏ cùng uống những giọt sương đêm đang lặng lẽ rỏ xuống từ  

bầu trời cao bí ẩn, chúng ta 

sẽ bất chợt nhìn thấy rất rõ 

gương mặt thật của tình yêu mà  

bao nhiêu năm tháng qua anh và 

em vẫn mê mải tuyệt vọng đi tìm 

(Trích trong tập thơ Chẹc Chẹc, Tan Hinh  Thuc publishing club, Hà Nội 2010)

Lý Thừa Nghiệp 

VỪA SINH VỪA TỬ 

Vừa sinh vừa tử chìm nổi linh đinh  

trên bức phù điêu bốn biển  

thiền na rụng bồng bềnh  

trùng dương tư mùa sủi bọt. 

Từ bi tâm xanh lên từng táng lá 

từng mảng mùa thu trôi trong tách cà phê  melbourne vừa đưa tang mùa hạ.  

Chào em mong manh hoa cúc 

ôi hạnh phúc quá xanh 

trên nãi chuối chín trên mỗi trang kinh 

chủng chủng hà sa bồ tát hiện. 

Vũ khúc duyên sinh 

lung linh 3 ngàn thế giới. 

Bàn tay mưa rào 

vẽ bức tranh thủy mạc  

phún thạch nhuộm nâu đồi trà nhuộm vàng lầu cát  nhuộm hồng biển đông rừng đước hát thiền ca  trái tim ta ôi vùng mây xanh hoang dã. 

Ngồi đây em bờ cỏ này bến phà xưa 

vạt áo cữu long giang vẫn bồng bềnh từng ngọn gió  phương đông vỗ cánh  

linh thứu sơn  

phất phơ ngọn phướng tánh  

tâm đồng ngang thiên địa. 

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here