G- Thế nào gọi là Giới luật, Định lực và Trí tuệ

0

“Tâm an giữa đời thường” của Tuệ Quảng/Linh Vũ tiếp theo

1- Giới luật. Giới luật được gọi là Sheila trong tiếng Phạn. Giới có nghĩa là cảnh giác, là sự hạn chế của các chuẩn mực đạo đức; pháp có nghĩa là chuẩn mực, gương mẫu, tiêu chuẩn… Giới luật ám chỉ những điều không nên làm và những điều chúng ta có thể làm. Năm giới của Phật giáo là nền tảng của mọi giới luật. Giới luật cơ bản nhất gọi là “Năm giới và mười điều tốt “, nội dung cốt lõi là “Nhất tâm làm điều thiện, tránh điều ác trong mọi việc”. Đây là điều căn bản cho những ai mới bắt đầu tu học. Tuy nhiên, mọi luật lệ được quy định đều không phải là vĩnh viễn. Chỉ có giới luật trong tôn giáo hay những người có đạo là không thay đổi. Một tôn giáo có thể tồn tại lâu dài và lan rộng; trong đó, có phần phụ thuộc vào nội dung giới luật của nó. Bởi vì, giới luật không chỉ để ngăn chặn sự hư hoại của tín đồ mà còn mang lại hạnh phúc cho con người. Hầu như mỗi tôn giáo đều có các giới luật và nội dung gần như giống nhau. Ngay cả năm giới luật của Cơ đốc giáo cũng giống với nhiều giáo phái khác.

Năm giới của Phật giáo là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Trong Nho giáo cũng có: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đặc biệt, năm giới trong Phật giáo có luật không uống rượu. Lý do là uống rượu sẽ khiến con người hôn mê, u mờ; thậm chí có thể vi phạm bốn giới đầu. Tuy nhiên, Đức Phật không bao giờ ép buộc ai phải làm như vậy. Còn việc có nên làm hay không tùy thuộc ở chúng ta. Chúng tôi đưa ra một ví dụ cụ thể: Luật giao thông ai cũng đều biết khi lái xe. Chính phủ hay Bộ giao thông đã khuyên chúng ta không được vượt đèn đỏ sẽ gặp nguy hiểm, gây tai nạn chết người và sẽ bị phạt. Nhưng việc vượt đèn đỏ đều do chúng ta tự làm. Trong cuộc sống hay trong tôn giáo cũng vậy, nếu không tuân theo giới luật đó là chuyện riêng mỗi cá nhân không có gì phải bàn cãi.

Khi nói đến giới luật của Phật giáo, có người cảm thấy khó chịu. Họ chủ trương phải tự do; cho nên, sự gò bó sẽ trở thành nực cười và cứng nhắc. Họ hỏi rằng tại sao phải ngăn cấm đủ điều, và rằng phải chăng đó là sự hạn chế quyền tự do của con người? Như chúng tôi đã trình bày trên, ý nghĩa của giới luật là để bảo vệ tất cả chúng sinh và giúp họ đạt được tự do và giải thoát nếu họ muốn. Điều này cũng giống như luật pháp hay nội quy của trường học, công xưởng, luật giao thông, luật quốc gia, xã hội .v.v. Vừa nghe, chúng ta thấy có vẻ nghiêm khắc, khó chịu mất tự do; nhưng thực chất, đó là sự bảo vệ cho chúng ta. Nếu không tuân thủ, mọi người sẽ gặp nhiều rắc rối và sự an toàn không được bảo đảm. Phật giáo đã thiết lập giới luật với mục đích để bảo vệ mọi người và đạt được sự giải thoát viên mãn.

Ý nghĩa của giới luật là giúp chúng ta tiêu trừ các chướng ngại trên con đường tu hành. Nói chữ Luật nghe có vẻ nghiêm trọng quá. Thật ra, nó chỉ là những quy tắc, quy định hợp lý mà thôi. Có câu người xưa thường nói: “Ai thuận theo tự nhiên sẽ thịnh vượng; còn ai đi ngược lại sẽ bị diệt vong”. Có nghĩa là đi ngược lại quy luật hay hành động theo quy luật tùy sự chọn lựa của mọi người. Ví dụ trời mưa cần dù che; nếu không, sẽ bị ướt cả người sinh ra đau bệnh. Hay mùa đông cần áo ấm che thân, mùa hè cần máy lạnh.v.v. Phật tử chúng ta nên tuân thủ các quy định ắt sẽ ít gặp những trở ngại và đó là điều cần thiết trên con đường tu tập.

2- Định lực là gì? Nói một cách nôm na dễ hiểu, đó là sự tập trung. Như vậy, làm sao để tập trung? Định lực là một trong năm lực. Lực này xuất phát từ Nhất tâm được phát triển qua các phép Thiền định. Ðịnh lực là một năng lực diệu kỳ, là kỹ năng thiền định giúp loại bỏ những lo lắng, ảo tưởng và hướng tâm trí ở một nơi mà không bị phân tâm. Đó chính là cảm giác ổn định bên trong. Cho nên, Đinh lực là cách ổn định bản thân và phát triển trí tuệ. Đối với một người bình tĩnh có định lực, không có gì trên đời có thể lay động được trái tim của họ.

Khi tâm đã an định, con người sẽ không sợ hãi bất cứ điều gì và không bị lôi cuốn bất kỳ trường hợp nào. Khi tâm trí không ổn định; lúc đó, con người không biết mình nên hay không nên làm gì. Sách Phật giáo có nói rằng chúng ta phải dùng định lực để đáp trả các loại quả báo, nghiệp chướng, ác duyên. Tức là, chúng ta phải có khả năng giữ bình tĩnh và đủ sức mạnh của sự tập trung. Nghĩa là, chúng ta phải cương quyết không làm điều xấu, không phạm phải những lầm lỗi .v.v. Trong trường hợp này, khi quả báo đến, bạn vẫn không làm điều xấu; có nghĩa là, bạn đã chặn được quả báo. Sự định tâm của con người rất quan trọng. Khi không còn tham lam, không còn nhiều nhu cầu, không đố kỵ người khác, chúng ta khi đó mới có được định lực.

Nói cho cùng, một người có định lực sẽ không biểu lộ niềm vui hay sự tức giận của mình; cũng như nỗi đau và niềm vui sẽ không đọng lại trong tâm trí của họ. Và họ không lo sợ đối diện với sự sống và cái chết. Vì vậy, thực hành “sự tập trung”/định lực có ý nghĩa rất quan trọng đối với cuộc sống. Tóm lại, định lực còn có thể gọi là “định” hay được gọi là “Thiền”. Có nghĩa là sự thống nhất của tinh thần và sự tập trung của ý chí vào một nơi để tránh xa những xao lãng, thăng trầm, và đạt được trạng thái tinh thần bình đẳng và yên tĩnh.

Định có thể làm dịu đi mọi lo âu và kiểm soát tâm trí để nhận ra con đường giải thoát trước mặt gọi là “samadhi”. Đó là sự “tập trung” thường được gọi là “thiền”. “Thiền” là khi chúng ta không bị mê hoặc ở bên trong lừa dối, và “định” là khi chúng ta không bị các cảnh giới bên ngoài làm ô uế hay làm xao lãng. Lúc đó, chúng ta có thể bộc lộ bản chất chân thật, nuôi dưỡng pháp thân và đời sống trí tuệ vốn chính là “căn gốc năng lực của định”. Thiền cho phép mọi người “phát triển trí tuệ dựa trên sự tập trung” và “có được sự giải thoát dựa trên trí tuệ”. Thiền có nhiều phương cách và tên gọi khác nhau của từng giáo phái như: Thiền Như Lai, Thiền Tổ, Thiền Đại Thừa, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Công An, Thiền Hoa Đầu, Thiền Uống Dính, Thiền Triệu Tĩnh, Thiền Chỉ và thiền Minh Sát, Văn Chân, Thiền Nam Tông, và Thiền Bắc Tông .v.v. Chúng tôi không đi sâu vào các phương pháp Thiền.

H- Tại sao phải Khổ và mọi vật trên thế gian là Vô thường

 Trong cuộc sống, ai cũng than thở rằng đời là bể khổ và mọi thứ trên thế gian đều vô thường. Như vậy, con người được cái gì và phải sống làm sao? Chúng tôi xin giải thích ngắn gọn như sau:

-Khổ. Đức Phật đã nói lên nhiều chân lý; trong đó, chân lý đầu tiên là sự đau khổ. Điều này cho chúng ta biết rằng bản chất của cuộc sống là đau khổ. Nói như thế, có người bảo rằng khi còn trẻ họ rất khỏe mạnh và hạnh phúc, có tiền bạc có cha mẹ chăm sóc .v.v.; như vậy, họ là người được hạnh phúc. Nhưng họ không nghĩ rằng, thời gian sau đó 5 hoặc 10 năm, họ sẽ bị mắc kẹt trong tình yêu, gặp khó khăn trong sự nghiệp, bị già đi, ốm đau bệnh tật, thiếu tiền bạc; lúc bây giờ, họ sẽ dần nhận ra sự thật về “khổ”. Lúc đó, họ mới thấy chân lý đầu tiên về sự khổ, và bản chất của cuộc sống chính là khổ đau. Cho dù họ phấn đấu đến cỡ nào, rốt cuộc cũng chỉ là một giấc mơ; vì cuộc sống đầy rẫy những thay đổi không ngừng.

Đau khổ đến từ đâu: Có phải nguyên nhân là thiếu thốn vật chất như cơm ăn, áo mặc? Không chỉ thế, nó còn do sự đấu tranh nội tâm, những mâu thuẫn, những nút thắt chưa được giải quyết. Tất cả những nỗi đau mà chúng ta cảm nhận đều do chính chúng ta tạo ra. Trong cuộc sống, do thiếu hiểu biết và không hiểu rõ nguyên lý nhân quả, chúng ta đã gây ra nhiều hành vi không phù hợp với tâm lý, ngôn ngữ, thể xác. v.v. Những hành vi này là nguyên nhân đau khổ cho chính chúng ta, và chúng liên tục tạo ra một vòng lẩn quẩn. Bởi vậy, con người thường mù quáng trốn tránh hậu quả của đau khổ; bởi vậy mỗi khi gặp, phải cầu mong thoát khỏi nó nhanh chóng, nhưng đau khổ vẫn còn đó. Ngược lại, nó còn tạo ra những đau khổ khác mà không hề hay biết. Đau khổ giống như cái bóng của mình vậy. Nó sẽ theo chúng ta mãi mãi. Việc trốn tránh nỗi đau cũng chẳng ích gì! Chỉ bằng cách đối mặt và chấp nhận nó, bạn mới có thể ngừng đau khổ. Cách duy nhất: Nên thực hành tu “Đạo” vốn là phương pháp hữu hiệu nhất. Vì trí tuệ có thể điều chỉnh trái tim mình để giảm bớt nguyên nhân gây đau khổ.

Đức Phật đã từng nói sinh là khổ. Đời sống con người bắt đầu từ khi thụ thai trong bụng mẹ; giống như đang bị nhốt trong buồng tối chật hẹp và bất tịnh tựa như địa ngục. Sau khi sinh ra, cơ thể phải òa khóc vì hoàn cảnh bên ngoài thay đổi, nhiệt độ nóng lạnh ập vào. Khi lớn lên, phải tập ăn, tập nói, tập đi; đến khi trưởng thành, xung quanh cuộc sống có sự phân biệt giữa nghèo giàu, hèn sang, vinh nhục, thương ghét, đẹp xấu .v.v. Và từ đó, con người tiếp tục gặp không biết bao nhiêu là đau khổ của trần gian: Từ tuổi thiếu niên đến tuổi trưởng thành, từ tuổi trưởng thành đến tuổi già. Khi tuổi già, sức lực dần dần suy giảm: Tóc bạc, da nhăn, lưng còng, mắt mờ, đau bệnh liên miên; và từ đó, cuộc sống trở nên buồn tẻ, mặc cảm, bồn chồn, chán nản, kiệt quệ và suy kiệt trên mọi phương diện. Lúc này, con người chỉ còn chờ cái chết đến. Thời gian này, người và đồ vật yêu thích, niềm đam mê cũng dần dần biến mất nhanh chóng theo thời gian cùng nỗi thất vọng tràn đầy.

Làm cách nào con người có thể giải thoát đau khổ và đạt được hạnh phúc?

-Thứ nhất, phải nhận biết sự thật về “khổ và hiểu được khổ”; chuyển hóa những cảm giác bi quan và tiêu cực bằng thái độ tích cực để vượt qua nghịch cảnh, rèn luyện cơ thể và tâm trí để tìm về con đường thanh tịnh.

-Thứ hai, chúng ta phải biết tâm niệm rằng, cho dù sự việc đó như thế nào, suy nghĩ tốt hay xấu, nó sẽ tạo ra nghiệp và hậu quả trong tương lai. Những đau khổ mà con người gánh chịu ở đời này xuất phát từ những nguyên nhân mà họ đã gieo trồng trong quá khứ: Đó là nghiệp thiện và nghiệp ác.

-Thứ ba, chúng ta phải hiểu rằng, hạnh phúc luôn đi kèm với cay đắng mà không một ai tránh khỏi; dù người đó là ai, cho dù hoàn cảnh có vui vẻ hạnh phúc đến đâu thì cũng có ngày bị mất và bỏ lại tất cả để trở về cát bụi. Đó là luật vô thường: Phải chịu đau khổ, sinh tử và chia ly. Tóm lại, có 8 loại khổ ở đời không giống nhau: khổ sinh, khổ già, khổ bệnh, khổ chết, khổ do ly ái, khổ do oán hận, khổ về sự khổ đau và không được như ý.

-Vô thường nói lên tính không thực và vô thường của vạn vật. Đức Phật cho rằng vạn vật đều do nhân duyên tạo thành, dần dần hư hoại nên gọi là vô thường. Vô thường có nghĩa là mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng đều bị thay đổi, không thể thường hằng và không có điều gì là không thay đổi. Vô thường là sự hiểu biết cơ bản về các hiện tượng thế gian và một trạng thái vượt khỏi đau khổ và mê lầm. Hiểu được vô thường có thể giúp chúng ta giảm bớt nỗi đau và lo lắng, tăng cường sự tự do và bình yên; có thể vượt qua vòng luân hồi sinh tử và nhận ra bản chất thực sự của mình. Chẳng hạn, cuộc đời con người là vô thường: Từ khi sinh ra cho đến khi chết, chúng ta trải qua vô số thay đổi. Thân thể, tâm lý, cảm xúc, suy nghĩ, v.v. không ngừng thay đổi. Nếu thấy rõ sự vô thường của cuộc sống, chúng ta phải trân trọng nó từng khoảnh khắc với bản thân mình và người khác. Đừng coi bất cứ điều gì là vĩnh viễn. Tất cả mọi thứ trên thế giới đều vô thường. Núi, sông, hoa, cây, động vật và côn trùng mà chúng ta nhìn thấy đều được tạo thành từ vô số hiện tượng. Mỗi hiện tượng đều liên tục sinh diệt trong chốc lát. Tất cả các pháp phát sinh từ các nguyên nhân và điều kiện đều không có tự tánh. Chúng được sinh ra khi các duyên hội tụ và khi phân tán sẽ biến mất. Từ góc độ này, thế giới mà chúng ta nhìn thấy chỉ là ảo ảnh không có bản chất hay đặc tính cố định. Nhận thức được vô thường, buông bỏ quá khứ và tương lai, trân quý hiện tại và sống trong hiện tại là những lựa chọn đúng đắn nhất. Phải nhận ra rằng: Thời gian và không gian vô tận, sự tồn tại của cuộc sống hữu hạn; tạo thành một nghịch lý không thể giải quyết. Vì vậy, cuộc sống là một bi kịch hoàn toàn không có giá trị hay lý tưởng. Tốt nhất, hãy nắm bắt khoảnh khắc thời gian và không gian trước mắt và tận hưởng hết mình.

Hiện tượng cuộc sống thể hiện một trạng thái luôn thay đổi và biến đổi được gọi là “sự vô thường của hành động”. Một chân lý khác mà chúng ta có thể thấy được: Đó là vạn vật đều “vô thường”. Có nghĩa là: Mọi thứ chúng ta nhận thức đều không ngừng thay đổi và không có gì là vĩnh cửu. Chính vì hai chữ “Vô thường” này là nguyên nhân gây ra đau khổ trong cuộc sống. Những thứ mà con người gọi là hạnh phúc, tươi đẹp, trẻ trung và khỏe mạnh; rồi có lúc, cũng trở nên tồi tệ và biến mất. Hay một vài ví dụ khác về vô thường: Bạn làm việc mỗi ngày tốt đẹp, lương bổng cao, gia đình sung túc; đột nhiên có một ngày, bạn bị đuổi việc. Bao khó khăn dồn dập đến! Gia đình sung túc của bạn đột ngột sụp đổ: Đó chính là vô thường ập đến. Hay có những lúc nhìn lại chính mình, thấy già đi và mất thời tuổi trẻ, da nhăn, răng rụng, tóc bạc .v.v. Đó là gì nếu không phải là vô thường, là nguyên nhân của đau khổ!  Tuy nhiên, con người thường vô minh và thường bám víu vào sự kết hợp sai lầm của năm uẩn. Đó là gốc rễ của mọi rắc rối, vì con người không hiểu “thân và tâm” hợp nhất một cách giả tạo mà cứ tưởng chừng như một. Năm uẩn cấu thành tự ngã của đời sống sanh, diệt. Đó là cái ngã đã làm cho ba độc tham sân si phát sinh. Nó kích hoạt thân khẩu, tạo nên mọi nghiệp chướng. Tóm lại, muốn hiểu khổ phải hiểu đúng về năm uẩn là vô thường.

Quan điểm của Phật giáo về “vô thường” và “vô ngã” dựa trên lý thuyết duyên khởi và lý thuyết ngũ uẩn vốn chỉ ra rằng, vạn vật sẽ không tồn tại mãi mãi và sẽ trải qua một quá trình từ sinh ra đến hủy diệt. Mọi hành động đều vô thường và tất cả các pháp đều vô ngã. Có nghĩa là: Sáng tạo, tồn tại, hủy diệt và trống rỗng.

Còn tiếp kỳ tới…

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here